|
|
|
Kiến thức chuyên ngành Hành trang đầu tiên cho sự thành công. |
|
Ðiều Chỉnh | Kiếm Trong Bài | Xếp Bài |
07-23-2010, 05:31 PM | #11 |
Tham gia: May 2010
Bài gửi: 1,555
|
thực ra là vì chưa có thời gian nghiên cứu chứ em nghĩ bỏ thời gian ra và cộng niềm đam mê thì ok hết
|
08-09-2010, 11:10 AM | #12 |
Tham gia: May 2010
Đến từ: HN
Bài gửi: 597
|
Các bộ chữ trong chữ Hán - Bộ thủ (部首)
Trung Quốc có đến hàng ngàn chữ nhưng được phân loại thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện bằng một thành phần cấu tạo chung gọi là bộ thủ. dựa theo số nét, các bộ thủ bao gồm:
1.一 丨 丶 丿 乙 亅 2.二 亠 人 儿 入 八 冂 冖 冫 几 凵 刀 力 勹 匕 匚 匸 十 卜 卩 厂 厶 又 3.口 囗 土 士 夂 夊 夕 大 女 子 宀 寸 小 尢 尸 屮 山 巛 工 己 巾 干 幺 广 廴 廾 弋 弓 彐 彡 彳 4.心 戈 戶 手 支 攴 文 斗 斤 方 无 日 曰 月 木 欠 止 歹 殳 毋 比 毛 氏 气 水 火 爪 父 爻 爿 片 牙 牛 犬 5.玄 玉 瓜 瓦 甘 生 用 田 疋 疒 癶 白 皮 皿 目 矛 矢 石 示 禸 禾 穴 立 6.竹 米 糸 缶 网 羊 羽 老 而 耒 耳 聿 肉 臣 自 至 臼 舌 舛 舟 艮 色 艸 虍 虫 血 行 衣 襾 7.見 角 言 谷 豆 豕 豸 貝 赤 走 足 身 車 辛 辰 辵 邑 酉 釆 里 8.金 長 門 阜 隶 隹 雨 青 非 9.面 革 韋 韭 音 頁 風 飛 食 首 香 10.馬 骨 高 髟 鬥 鬯 鬲 鬼 11.魚 鳥 鹵 鹿 麥 麻 12.黄 黍 黑 黹 13.黽 鼎 鼓 鼠 14.鼻 齊 15.齒 16.龍 龜 17.龠 thay đổi nội dung bởi: a, 08-09-2010 lúc 11:56 AM |
08-09-2010, 11:37 AM | #13 |
Tham gia: May 2010
Đến từ: HN
Bài gửi: 597
|
Tam Thiên Tự
Sau đây mình sẽ đăng dần cuốn TAM THIÊN TỰ, Tên sách nghĩa đen là "ba ngàn chữ", xếp 3.000 chữ nho và nghĩa tiếng Việt của chúng, như một bài vè cực dài mỗi câu hai âm, khi đọc lên thì có vần dễ nhớ.
Tam thiên tự 三千字 soạn giả Đoàn Trung Còn 天thiên: trời. 地điạ: đất. 舉cử : cất. 存tồn: còn. 子tử : con. 孫tôn: cháu. 六lục: sáu. 三tam: ba 家gia: nhà 國quốc : nước 前tiền: trước 後hậu: sau 牛ngưu: trâu 馬mã: ngựa 距cự : cựa 牙nha: răng 無vô : chăng 有hữu: có 犬khuyển: chó 羊dương: dê 歸qui: về 走tẩu: chạy 拜bái: lạy 跪quỵ: quỳ 去khứ: đi 來lai: lại 女nữ: gái 男nam: trai 帶đái: đai (thắt lưng) 冠quan: mũ 足túc: đủ 多đa : nhiều 愛ái: yêu 憎tăng: ghét 識thức: biết 知tri: hay 木mộc: cây 根căn: rễ 易dị: dễ 難nan: khôn 旨chỉ: ngon 甘cam: ngọt 柱trụ: cột 樑lương: rường 床sàng:giường 席tịch: chiếu 欠khiếm: thiếu 餘dư: thừa 鋤sừ: bừa 鞠cúc: cuốc 燭chúc: đuốc 燈đăng: đèn 升thăng: lên 降giáng: xuống 田điền: ruộng 宅trạch: nhà 老lão: già 童đồng: trẻ 雀tước: sẻ 鷄雞kê: gà 我ngã: ta 他tha: khác 伯bá: bác 姨di: dì (64 chữ) thay đổi nội dung bởi: a, 08-09-2010 lúc 11:54 AM |
08-09-2010, 11:51 AM | #14 |
Tham gia: May 2010
Đến từ: HN
Bài gửi: 597
|
Chiết tự chữ cho dễ học nè
Thiên 天 Trời:
dưới là một người đang dang rộng tay ra (chữ đại 大), trên là chữ nhất 一, thể hiện một cái gì bao trùm. Gọi là Trời. Địa 地 Đất: bộ Thổ 土 là đất, đivới chữ Dã 也 lấy làm âm (theo lục thư) Cử 舉 Cất: lấy chữ Dữ 與 làm âm, bên dưới là chữ Thủ 手 bớt nét làm nghĩa (sách viết), nghĩa là Cất lên, giơ lên, ngẩng lên... Lý Bạch có câu: Cử đầu khán Minh nguyệt - Đê đầu tư cố hương (Ngẩng đầu thấy trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương). Tồn 存 Còn: là chữ Tài 才 đi với bộ Tử 子. Tạm hiểu là: người con có tài thì để ra được của cải ( tồn = còn), nếu bất tài thì chẳng để Tồn ra cái gì hết,chỉ tổ làm phiền cha mẹ. :D |
08-09-2010, 12:07 PM | #15 |
Tham gia: May 2010
Đến từ: HN
Bài gửi: 597
|
Tử 子con , Tôn 孫 cháu, Lục 六 sáu, Tam 三 ba
Tử 子con: Tử là 1 chữ trong bộ thủ (214 chữ cái này bắt buộc phải học thuộc), có 3 nét, thuộc bộ tử 39 Tôn 孫 cháu: bộ Tử 子, ghép với chữ Hệ 系, chỉ quan hệ gia đình, nòi giống. Nay trong Giản thể, chữ Hệ thay bằng chữ Tiểu, ý là " giống Con, nhưng Bé thì gọi là Tôn- cháu??? 孙: chữ này cũng là Tôn) Lục 六 sáu: Lục thuộc bộ bát 八 Tam 三 ba: Tam là 1 chữ trong bộ thủ (214 chữ cái này bắt buộc phải học thuộc), có 3 nét, thuộc bộ nhất |
08-23-2010, 02:47 PM | #16 |
Tham gia: May 2010
Đến từ: HN
Bài gửi: 597
|
Gia家 nhà, Quốc國 nước, Tiền 前trước, Hậu 後sau
Gia 家 nhà:
Bộ Miên 宀 là mái nhà, theo sách thì chữ Thỉ 豕 (nghĩa là lợn, heo cũng như chữ trư 豬) Trên là mái nhà, dưới có con lợn (chắc ngày trước nhà nào cũng nuôi lợn - sao không có con gà là kê nhỉ hê hê). Gọi là Gia - Nhà. Quốc 國 nước: thuộc bộ Vi 囗, ta hiểu là bờ cõi. Theo sách thì bên trong là chữ Hoặc 或 chỉ thanh. Ta có thể hiểu theo cách khác là: Để giữ Nước 國, ta cần hô (khẩu 囗), tất cả một 一 lòng, cầm vũ khí戈 (qua), để bảo vệ bờ cõi (Vi 囗). Tiền 前trước: Theo sách: thuộc bộ đao 刀. Là một người dừng bước 止 (chỉ)trên thuyền 舟 (chu), sau lưng giắt một con dao 刀. Tôi đoán ý muốn nói đến người Đứng mũi chịu sào - người phía trước - Tiền 前. (cái này hơi khó hiểu) Hậu 後 sau: thuộc bộ Xích 彳. có chữ Yêu 幺, là bé (trong 214 bộ thủ- từ nay tôi xin gõ 214)- tiểu yêu, với xích彳- bước ngắn - và tri 夂( 214)- theo sau mà đến (khó nhọc). Đã Bé, bước ngắn, lại còn Đi theo sau thì tất nhiên phải đi sau (Hậu) thôi! Nguồn: Cái bài này em xin lại của bác Tiểu Đại bên forum viethoc.org thay đổi nội dung bởi: a, 08-23-2010 lúc 02:51 PM |
02-05-2013, 02:46 PM | #17 |
Administrator
Tham gia: May 2010
Bài gửi: 1,044
|
Có những Hán tự tượng hình thật dễ hiểu:
Lồi: 凸 Lõm: 凹 |
06-17-2013, 07:37 PM | #18 |
Administrator
Tham gia: May 2010
Bài gửi: 1,044
|
Hán tự của chữ "Đức"
Các bạn có biết chữ "Đức" được các Cụ nhà mình mô tả thế nào không:
"Chim sẻ vắt vẻo cành tre, THẬP trên, TỨ dưới, NHẤT đè chữ TÂM" là đây: 徳 Đúng là bộ 彳 ở bên trái, trông như chú chim sẻ đậu trên cây tre, rất dân dã, làng quê, rồi bên phải có chữ THẬP 十 ở trên, chữ TỨ 四 ở dưới, chữ NHẤT 一 rồi cuối cùng chính là chữ TÂM 心... Còn được nghe một bậc tiền bối, thích tìm hiểu chữ Hán giải nghĩa cho rằng: Chữ Đức sở dĩ được ghép như trên là vì chữ này thể hiện cách ứng xử của 2 con người, với bộ 彳 là do 2 chữ NHÂN 人 mà ra, rồi THẬP là mười phương, TỨ là 4 hướng, ở đâu cũng đều phải có chữ TÂM! Xin bái phục các Cụ! thay đổi nội dung bởi: thang, 06-17-2013 lúc 07:46 PM |
07-04-2013, 05:04 AM | #19 |
Administrator
Tham gia: May 2010
Bài gửi: 1,044
|
học chữ hán bằng chiết tự, thú vị mà sâu sắc
Đó là một trong những mẹo nhớ chữ Hán của người xưa thường được gọi là chiết tự. Chiết tự nảy sinh trên cơ sở nhận thức về hình thể của chữ Hán, cách ghép các bộ, cách bố trí các bộ, các phần của chữ. Trên phương diện nào đó, chiết tự chính là sự vận dụng phân tích chữ Hán một cách linh hoạt sáng tạo. Hơn thế nữa, nó không chỉ dừng lại ở hình thức phân tích chữ Hán thuần túy mà còn chuyển sang địa hạt văn chương và các trò chơi thử tài trí tuệ đầy thú vị và hấp dẫn.
Như chúng ta đã biết, ở chữ Hán luôn có sự kết hợp nổi bật của ba mặt: hình - âm - nghĩa. Và chiết tự trong những chữ Hán đã phát huy đặc điểm cấu trúc ba mặt này để tạo nên nét riêng độc đáo so với chiết tự ở những hệ thống văn tự khác. Chiết tự trong chữ Hán không chỉ chiết về mặt hình thể chữ mà còn liên hệ với cả phương diện âm và nghĩa. Về mặt hình thể, chiết tự dựa trên nguyên tắc phân chữ Hán ra các bộ phận cấu thành của chữ. Về mặt âm, chiết tự sử dụng các tri thức mang tính ngữ âm học như nói lái và phiên thiết. Về mặt nghĩa, chiết tự dựa vào bản chất biểu ý của chữ Hán. Một chữ Hán bất kỳ cũng gồm nhiều nét hay các phần tạo nên. Với chữ độc thể là các nét. Với chữ hợp thể là các bộ phận hợp thành phức tạp hơn về cấu trúc. Chính nhờ nét riêng độc đáo này, chiết tự trong chữ Hán trở nên đa dạng về hình thức và kiểu loại, phong phú về nghệ thuật ngôn từ. Để dễ nhớ, chiết tự thường được thể hiện dưới dạng thơ hoặc văn vần qua hàng loạt các bài thơ, câu đố chiết tự, rất cuốn hút đối với người học chữ. Những câu chiết tự kiểu như: Cô kia đội nón chờ ai Hay cô yên phận đứng hoài thế cô. (Chữ an 安) đã trở nên quen thuộc với biết bao thế hệ học chữ Hán (đặc biệt là với trẻ nhỏ). Người ta còn dùng câu đố chiết tự để thử tài chữ nghĩa, thử tài suy đoán của nhau. Nhờ đó, chiết tự có điều kiện đi sâu vào trong đời sống Hán học, dần dần trở thành thói quen khi học chữ. Chiết tự xảy ra với cả ba mặt hình - âm - nghĩa của chữ Hán, nhưng chủ yếu là ở hai mặt hình và nghĩa. Chẳng hạn: - Đấm một đấm, hai tay ôm quàng Thuyền chèo trên núi, thiếp hỏi chàng chữ chi ? - Lại đây anh nói nhỏ em nì Ấy là chữ mật một khi rõ ràng. thuyền chèo là Đấm một đấm hai tay ôm quàng là dáng dấp của bộ miên dáng dấp của chữ tất 必, thuyền chèo trên núi, trên chữ sơn 山 có chữ tất 必. Ghép lại chúng ta được chữ mật 密 (bí mật, rậm rạp) (Chiết tự dựa vào hình thể). Hay như: Hai người đứng giữa cội cây, Tao chẳng thấy mày, mày chẳng thấy tao. Đó là hình chữ lai 來. Chữ lai 來 có hình hai chữ nhân 人 ở hai bên, chữ mộc 木 ở giữa. Thực ra hai chữ nhân 人 này vốn là tượng hình hai cái gai. Lai 來 là tên một loại lúa có gai, sau được dùng với nghĩa là đến. (Chiết tự về mặt hình thể). Ba xe kéo lê lên đàng, âm vang như sấm. Đó là chữ oanh 轟. Chữ oanh được viết với ba chữ xa 車 và có nghĩa là "tiếng động của nhiều xe cùng chạy". (Chiết tự về mặt ý nghĩa). Tây quốc hữu nhân danh viết Phật, Đông môn vô thảo bất thành "lan". Câu trên có thể dịch là: "Nước phương Tây có người tên là Phật". Phật Thích Ca là người Tây Trúc (ấn Độ) so với nước ta thì ở phương Tây, chữ Phật được viết với chữ nhân 亻đứng cạnh chữ tây 西 trên chữ quốc 國. Chữ này không thấy có trong các từ điển, tự điển của Trung Quốc (như Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải...) nhưng có mặt trong một số câu đối tại các chùa Việt Nam. Câu dưới có nghĩa: "Cửa phía Đông không có cỏ không thành lan”. Chữ lan 蘭 (hoa lan) được viết: thảo đầu 艸 (cỏ), ở dưới là chữ lan 闌 (lan can) gồm chữ môn 門 (cánh cửa), bên trong có chữ đông 東 (phương Đông). Trong cách viết chính quy phải thay đông 東 bằng giản 柬 (Chiết tự về mặt ý nghĩa). Chiết tự về mặt âm đọc trong chữ Hán tiêu biểu nhất là lối phiên thiết phục vụ cho việc chú âm trong các sách học, các tự điển. Nó cũng xuất hiện rải rác trong các câu đố chữ Hán. Ví dụ như: Con gái mà đứng éo le, Chồng con chưa có kè kè mang thai. Đây là câu đố chiết tự chữ thủy 始. Chữ thủy 始 vốn là một chữ hình thanh, có chữ thai 台 chỉ âm, chữ nữ 女 (con gái) nói nghĩa. Những trường hợp này xuất hiện rất ít và thường thì không chỉ thuần nhất chiết tự về âm đọc mà còn kèm theo cả phần hình thể hoặc ý nghĩa. Qua những ví dụ chúng tôi vừa dẫn ra trên đây, có thể thấy các câu đố chiết tự này có ý nghĩa không nhỏ đối với việc học nhớ chữ Hán. Dựa vào việc phân tích và mô tả cụ thể, sinh động hình thể chữ Hán, các câu đố chữ Hán đã giúp cho người giải đố có khả năng tái hiện lại những chữ đã học không mấy khó khăn. Đồng thời, nó cũng giống như một bài kiểm tra định kỳ cho người mới học mà việc thuộc lòng đề bài và lời giaỉ là rất dễ dàng (do tính ấn tượng của nó). Chẳng hạn những câu như: Anh kia tay ngón xuyên tâm. (Chữ tất 必) Mặt trời đã xế về chùa. (Chữ thời 時) Việc vận dụng các liên tưởng hình ảnh vào hình thể, âm đọc hay ý nghĩa của chữ đã làm cho chiết tự nói chung và chiết tự trong câu đố chữ Hán nói riêng có tính sáng tạo cao. Nhờ đó mà các bộ phận cấu thành chữ Hán trở nên sống động, có hồn. Trong số 70 câu đố chữ Hán trong kho tàng câu đố Việt Nam mà chúng tôi sưu tập được. có đặc điểm chiết tự khá thú vị. Chẳng hạn: Dưới đây là một số ví dụ: - Có tú mà chẳng có tài, Cầm ngang ngọn giáo, đâm ngoài đít dê. (Chữ hy 羲) - Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập. (Chữ chương 章) - Đất thì là đất bùn ao, Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay. Con ai mà đứng ở đây, Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào. (Chữ hiếu 孝) - Một vại mà kê hai chân, Con dao cái cuốc để gần một bên. (Chữ tắc 則) - Nhị hình, nhất thể, tứ chi, bát đầu, Tứ bát, nhất bát phi toàn ngưỡng lưu. (Chữ tỉnh 井) - Đóng cọc liễn leo, tả trên nhục dưới, giải bơi chèo. (Chữ tùy 隨) - Đêm tàn nguyệt xế về Tây, Chó sủa canh chầy, trống lại điểm tư. (Chữ nhiên 然) - Con dê ăn cỏ đầu non, Bị lửa cháy hết không còn chút đuôi. (Chữ mỹ 美) - Thương em, anh muốn nên duyên, Sợ e em có chữ thiên trồi đầu (Chữ phu 夫) - Khen cho thằng nhỏ có tài, Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm. (Chữ dũng 勇) - Thiếp là con gái còn son, Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề. (Chữ hảo 好) - Ruộng kia ai cất lên cao, Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa trời. (Chữ tư 思) - Đất cứng mà cắm sào sâu, Con lay chẳng nổi, cha bâu đầu vào. (Chữ giáo 教) - Em là con gái đồng trinh Chờ người tuổi Tuất gá mình vô em. (Chữ uy 威) - Ông thổ vác cây tre, đè bà nhật. (Chữ giả 者) - Đất sao khéo ở trong cung, Ruộng thời hai mẫu, bờ chung ba bờ. (Chữ cương 疆) - Muốn cho nhị mộc thành lâm Trồng cây chi tử tiếng tăm lâu ngày. (Chữ tự 字) - Hột thóc, hột thóc, phẩy đuôi trê, Thập trên nhất dưới bẻ què lê. (Chữ pháp 法) Nhìn chung, các câu đố liên quan đến chiết tự chữ Hán đều dựa vào ba mặt hình - âm - nghĩa của chữ Hán để "chiết" và "đố" chữ. Chúng tôi đã thống kê được 44 chữ chiết tự về mặt hình thể, 28 chữ chiết tự về mặt ý nghĩa, và chỉ có một trường hợp được chiết tự về mặt âm đọc (chữ thủy 始) trên tổng số 73 chữ được sưu tập. Như thế, chiết tự về hình thể chiếm số lượng nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là việc nhận biết và nhớ hình thể chữ Hán luôn là yêu cầu đầu tiên đối với người học chữ Hán. Hai bảng thống kê 72 chữ chiết tự về mặt hình thể và ý nghĩa sẽ được chúng tôi để ở phần Phụ lục. Qua thống kê, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ chữ được chiết tự về mặt hình thể chiếm khá cao, 60% (44 chữ trong tổng số 73 chữ được chiết tự). Trong khi đó, tỉ lệ chữ được chiết tự về mặt ý nghĩa là 38% (28 chữ trên tổng số 73 chữ được chiết tự). Chỉ có 2% còn lại là số chữ được chiết tự về mặt âm đọc. Điều này chứng tỏ khi đem các chữ Hán ra chiết tự, người ta thường chú trọng đến hình thể chữ. Bằng cách chú ý đến hình thể, chiết tự sẽ giúp cho người mới học dễ dàng tưởng tượng và hình dung ra các chữ Hán cồng kềnh, nhiều nét mà họ đã học. Tất nhiên, không ít trường hợp chiết tự đã áp dụng vào tục tự, biệt tự. Phép phân tích chữ Hán được áp dụng chủ yếu trên cơ sở phân tích các thiên bàng tổ hợp nên hợp thể tự. Các thiên bàng này cũng là những độc thể tự. Tuy nhiên, ở nhiều trường hợp chiết tự, phép phân tích này còn được tiến hành trên cả độc thể tự qua phương thức mô tả từng bộ phận của chữ. Điều đó rất phù hợp với điều kiện truyền thống, khi chiết tự được thực hiện trên cơ sở phân tích hình thể chữ Hán. Tỉ lệ chữ độc thể và hợp thể được đưa ra chiết tự trong các câu đó cũng không giống nhau. Trong đó, chữ độc thể được đưa ra chiết tự chiếm tỉ lệ thấp, chỉ khoảng 29% (21 chữ trên tổng số 73 chữ được chiết tự). Trong 70% còn lại là chữ hợp thể thì chữ hội ý chiếm đa số. So sánh hai bảng thống kê, chúng tôi còn thu được những kết quả rất khác nhau về tỉ lệ chữ độc thể. Tỉ lệ chữ độc thể ở bảng 1 cao gấp 2 lần tỉ lệ chữ độc thể ở bảng 2 (36% so với 18%). Kết quả ấy chứng tỏ khi chiết tự, những chữ độc thể chủ yếu áp dụng phương thức tả chữ. Cũng qua hai bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy các chữ Hán được chiết tự đều là những chữ thông dụng, thường dùng trong đời sống hàng ngày qua hệ thống tiếng Hán - Việt của chúng ta. Ví dụ như các chữ thánh 聖, vương 王, thủy 始, tử 子, an 安, điền 田, pháp 法... Vì vậy, tìm hiểu chiết tự còn rất tiện ích cho việc phổ cập tri thức về chữ Hán trong trường phổ thông, giúp người Việt thông hiểu hơn tiếng nói của mình. Như vậy, từ những ưu điểm đã phân tích ở trên của chiết tự, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa: chiết tự là một phương pháp học, nhớ chữ Hán độc đáo của người Việt. Đồng thời qua những câu đố chiết tự này có thể tạo sự hứng thú cho việc học, nhớ chữ Hán. Tạp chí Hán Nôm số 5/2002 TS. NGUYỄN THỊ HƯỜNG |
Bookmarks |
Tags |
ý nghĩa tượng hình của chữ hán , chiết tự , han tu , hán tự , kanji , y nghia cua chu nom |
Ðang đọc: 1 (0 thành viên và 1 khách) | |
|
|
Similar Threads | ||||
Ðề tài | Người Gởi | Chuyên mục | Trả lời | Bài mới gửi |
bộ chia truyền hình cáp loại nào tốt? | nam_hd55 | Điện tử - Kỹ thuật số | 2 | 05-13-2013 04:22 PM |
Truyền hình số - Cuộc cách mạng công nghệ đã bắt đầu! | thang | Kiến thức chuyên ngành | 0 | 03-26-2013 03:54 PM |
Nghệ thuật trút bỏ căng thẳng | duyniceboy | Sức khoẻ và thành công | 0 | 11-29-2010 12:42 PM |
Học ngoại ngữ bằng ...thơ | friend_star | Gallery | 5 | 09-15-2010 01:02 AM |
Powered by:MTG
E-mail: admin@muathoigian.vn