View Single Post
Old 01-29-2010, 02:54 PM   #6
duyniceboy
Super Moderator
 
duyniceboy's Avatar
 
Tham gia: May 2010
Đến từ: HCM
Bài gửi: 1,804
Default

CHƯƠNG 5

Năm 1942, biên giới Nam Tư – Bungari được mở thông. Những người từ Petritrơ và từ xa hơn nữa cùng nhau tới gặp Vanga. Ai cũng muốn Vanga nói trước cho về số phận của mình, của người thân và gia đình. Những người bệnh đến đây hy vọng được bà chữa lành.

Một lần có một số người lính thuộc trung đoàn II, quân đội Bungari tới gặp bà. Trong số họ có anh lính Đimitơrơ Guserôp, 23 tuổi, người làng Krưngllise. Anh chỉ muốn gặp chính Vanga để hỏi về cái tương lai chẳng hứa hẹn điều gì sáng sủa của mình. Người anh trai của anh là một nhà buôn vừa bị giết và cướp sách cả hàng hoá, để lại một mẹ già, một người vợ bị bệnh ho lao và ba đứa con thơ.

Đimitơrơ ngần ngừ ngoài sân chưa dám vào ngay. Bỗng Vanga từ trong nhà bước ra và gọi đúng tên anh, rồi nói: “Tôi biết vì sao anh tới đấy. Anh muốn biết tên những kẻ đã giết anh trai của anh. Có thể tôi sẽ cho anh biết, nhưng anh phải hứa trước với tôi là anh sẽ không trả hận. Anh sẽ sống và trở thành người làm chứng tội ác của chúng tại mỗi phiên toà”.

Vanga không cho phép ai trả thù. Bà tin tưởng vững chắc rằng con người chỉ được hoặc hướng tới điều thiện, bởi điều ác, trong đó có cả sự trả thù sẽ bị trừng phạt, và sự trừng phạt đó nó thường rất nặng nề và nếu không rơi lên đầu người trả thù thì cũng rơi lên đầu hậu thế của anh ta. Tôi thường hỏi bà tại sao lại có sự không công bằng như vậy, bà luôn trả lời: “Để cho đau hơn”. Tôi không thể hiểu ý nghĩa những lời nói này của bà.

Tôi còn nhớ một trường hợp như thế này. Mấy năm trước có một người nông dân tới gặp Vanga. Gia đình ông sinh tất cả 13 đứa con, nhưng tất cả đều chết khi còn nhỏ, đứa thứ 13 chết khi vừa 12 tuổi. Bác sĩ giải thích: rằng chính nguyên nhân những cái chết đó vì bà truyền vi trùng lao cho con mình, nhưng Vanga giải thích khác. Bà nhắc lại cho vị khách chuyện ngày xưa ông ta đã quá thẹn thùng vì bà mẹ mình già còn có mang nên đã lăng mạ bà rất nặng. Ông ta hối không kịp nữa: cả mẹ và cả em ông ta đều chết. Điều đó xảy ra lâu lắm rồi, người kia đã quên, nhưng Vanga thì không quên. Bà lập tức hiểu ngay tại sao thiên nhiên lại nặng tay đến như vậy đối với gia đình ông ta.

Nhưng chúng ta hãy quay lại với người lính trẻ. Khi ấy ở Xtrumitse, việc Vanga gọi đúng tên và nói đúng mối bận tâm của Đimitơrơ làm anh khinh hoàng đến nỗi không nhớ mình đã ra khỏi nhà Vanga như thế nào. Sau đó anh quay lại nhà Vanga nhiều lần nữa và lần nào họ cũng nói chuyện tay đôi với nhau rất lâu trong căn phòng của Vanga.

Vào giữa tháng tư, Vanga nói với em gái là Đimitơrơ đã ngỏ lời cầu hôn với cô và sắp tới họ sẽ chuyển sang sống ở Pêtritrơ.

Thời gian này, mấy em trai của Vanga cũng không có nhà. Vaxin vào lính và đóng tại Đupnitse còn Tôm bị lùa sang Đức lao động khổ sai.

Sáng ngày 22 tháng 4, một chiếc xe ngựa dừng trước cửa nhà Vanga. Anh chành Đimitơrơ hồi hộp nhảy xuống. Tin mừng lan nhanh khắp hàng xóm và mọi người đến để chia tay với cô gái tiên tri. Nhiều người thậm chí trách Vanga là can tâm dời quê hương xứ sở. Vanga không để tâm những lời này vì chuyến đi này chính là chia tay với cuộc sống đầy tủi cực của đời thiếu nữ. Tuy tương lai cũng rất mù mịt nhưng cô vẫn hy vọng là những ngày tương sáng đang ở phía trước.

Của hồi môn của cô dâu chỉ mang tính chất tượng trưng. Trên vai của Vanga vắt một chiếc khăn quàng lụa màu đỏ do cô tự may lấy và cô mang theo mình một cái chảo và một cái bi đông bằng đồng để làm vật kỷ niệm về ngôi nhà của bố mẹ. Đó là toàn bộ đồ đạc của cô. Liupka ngồi cạnh chị và ngoái đầu như nhìn lại lần cuối cùng ngôi nhà nhỏ bé của họ.

Chiều ngày hôm đó, họ về tới Petritrơ. Họ đứng trước một ngôi nhà nát không thể gọi là nhà ở được nữa. Từ các khung cửa sổ nhàbên cạnh, những đôi mắt mở to tò mò nhìn họ. Một số người bước ra đường, một vài cô nào đó thể hiện sự ngạc nhiên của mình thành lời: “Làm sao một người mù lại có thể làm bà chủ được, mắt mũi thế kia thì còn làm với ăn gì được”. Nhưng Vanga không để tâm những lời nói như vậy.

Họ bước vào hành lang dài bẩn và tối, hai bên là hai căn phòng nhỏ. Sau này một căn trở thành phòng ngủ còn một căn thì Vanga ngồi tiếp khách khứa.

Ở phía sau còn có một căn phòng nữa, sau mới được dựng lên. Liupka nhớ lại, trong có một số tấm phản gỗ trên để một tấm nệm, gối là các túi vải trong nhồi bẹ ngô. Đó là giường ngủ của bà lão Magdalena bảy mươi tuổi – mẹ của chàng rể với ba đứa cháu con của người anh trai bị giết và thêm hai đứa cháu con một người anh khác nữa. Lại thêm một người con dâu bị bệnh ho lao. Sự bần cùng thấy rõ khắp nơi.

Như vậy Vanga đã đổi được cuộc sống đói khổ lấy một cuộc sống khác cũng không kém đói khổ và khó khăn hơn.

Ngày 10 tháng 5 năm 1942, Vanga chính thức kết hôn cùng Đimitơrơ và bắt đầu chăm lo đến cuộc sống gia đình. Người đàn bà trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Bà lão Magdalena không hài lòng với sự lựa chọn của con trai mình và thậm chí còn nói: “Chẳng lẽ số phận mày nó lại như vậy”. Có lẽ bà hy vọng con trai sẽ tìm một cô vợ lực điền khoẻ mạnh để cứu cái gia đình đông người toàn người già, người ốm và con nít này. Vanga im lặng nhẫn nhục chịu đựng và nhanh chóng chứng tỏ với những người còn hoài nghi những gì cô có thể làm được. Cùng với Liupka, Vanga thu dọn, lau chùi nhà cửa, sửa sang, quét lại vôi tường và chẳng bao lâu, ngôi nhà đã sáng sủa hẳn lên. Vanga không cho những người dân trong làng đến biến cái sân nhà mình thàng cái chợ để mua bán nữa và sắp xếp nó lại. Thấy rõ là ngôi nhà có một bà chủ biết thu vén.

Gia đình họ sống như những gia đình khác thời chiến tranh. Nhưng điều đó tiếp diễn không được lâu. Tiếng đồn về tài tiên tri của Vanga nhanh chóng lan xa, dòng người lại đổ về nhà Vanga. Đimitơrơ không hài lòng về chuyện này. anh nghĩ là giờ đây Vanga phải từ bỏ việc tiên đoán để giành toàn bộ thời gian cho gia đình. Do rất tôn trọng Vanga, anh cảm thấy rất khổ tâm khi mình không có khả năng nuôi được gia đình. Vanga cũng rất yêu chồng nhưnh cô cho rằng sứ mạng của mình là phục vụ mọi người và cái sứ mạng đó còn lớn lao hơn những nghĩa vụ và trách nhiệm với gia đình, thậm chí cô còn thấy cuộc sống riêng của mình cũng phải gình cho người khác.

Dòng người đổ đến nhà Vanga lo âu mệt mỏi những với những tia hy vọng trong ánh mắt.

Trong những năm tháng ấy, rất nhiều thanh niên Bungari chiến đấu chống lại bọn phát xít trong các dội du kích. Những người thân của họ thường tìm đến Vanga hy vọng nghe được những tin tức về họ. Bọn cảnh sát cũng biết được điều đó. Hai viên cảnh sát Xugurôps và Ladadốp hầu như ngày nào cũng đến nhà Vanga, tung ra những lời đe doạ, bắt Vanga phải khai ra những gì đã nói với thân nhân của những “kẻ thù của chính quyền”. Nhưng Vanga đã im lặng. Chúng trả thù bằng cách bắt Vanga đi lao động bắt buộc mà trước đó một người mù như cô vẫn được miễn.

Rồi lệnh động viên quân dự bị được ban bố. Đimitơrơ bị động viên vào bộ phân quân đội đóng ở Hy Lạp. Từ giã Vanga anh hứa là nếu sống sót trở về, anh sẽ xây cho cô một ngôi nhà mới. Đimitơrơ rất khéo tay và rất giỏi nghề mộc mặc dù chẳng học ở đâu cả. Nhưng lời hứa của anh chỉ thực hiện xong vào năm 1947.

Tiễn chồng Vanga chỉ nói: “Coi chừng nước”.

Quả thật, những ai sống sót từ Hy Lạp trở về phần nhiều đều bị ngã nước và các bệnh gan khác do uống thứ nước độc trong các đầm lầy Hy Lạp.

Năm 1942, Maria Gaigurôva, một bà giáo thành phố Xandaxiki thường đến thăm Vanga. Vanga và Liupka rất mến bà. Bà có bốn cô con gái và hai con trai. Vanga thường đùa: “Cô Maria ạ! Cháu gả con Liupka nhà cháu cho một trong hai cậu bên nhà đấy”. Chuyện xảy ra đúng như vậy. Liupka đã gặp gỡ với Xtôian, người con trai lớn của bà Maria. Họ yêu nhau và chẳng bao lâu đã làm lễ cưới. Đó chính là cha và mẹ tôi.

Cả bà ngoại Maria và ông nội Bôrít của chúng tôi đều là những người học rộng thời ấy. Ông tôi chơi được đàn vĩ cầm, biết vẽ và đọc các pho kinh điển bằng tiếng Pháp.

Là một người được giáo dục trong tinh thần của chủ nghĩa duy vật, ông tôi không tin lắm vào những lời tiên đoán của Vanga và thậm chí có một lần khi Vanga đến thăm nhà, ông đã thử tài của cô. Ông hỏi: “Cô có biết điều gì xảy ra với hài cốt của cha tôi, người đã bị bọn Thổ giết chết năm 1912 ở Mennic không? Cho đến bây giờ, người ta vẫn chưa tìm thấy hài cốt của ông ấy”. Vanga khuyên ông nên đến Mennic tìm một người có tên là Petrơ, người đã chứng kiến sự việc trên và có thể kể lại tỉ mỉ những gì đã xảy ra trên thực tế. Ông Bôrit ngạc nhiên nhưng quyết định tiếp tục cuộc thử nghiệm. Ông đến Mennic và quả thật đã tìm được gia đình ông Petrơ. Ông này đã chết, nhưng người con trai của ông ta đã kể cho ông tôi những chuyện mà ông ta đã kể lại nhiều lần. Té ra, cụ ngoại tôi là một linh mục và đồng thời là một người tích cực đấu tranh vì sự trong sáng của tiếng Bungari, trường học Bungari, nhà thờ Bungari, đã bị quân Thổ bắt và giết hại một cách dã man. Bọn Thổ căm thù ông đến nỗi tiếp tục hành hạ hài cốt của ông. Chúng ném xương vung vãi dưới một gốc cây, còn trong hòm của ông thì chúng bỏ xương của một con ngựa vào.

Sau chuyện này, ông ngoại tôi bắt đầu tin vào tài tiên tri của Vanga và quyết định hỏi cô về số phận của hai người anh trai của ông đã rời khỏi đất nước vào năm 1912. Vanga trả lời: Sêrô nằm trong mộ, Nicôla còn sống. Tôi trông thấy ông ấy cách đây không lâu, ông ấy còn ở tại một thành phố lớn của nước Nga. Ông ấy học ở đấy và trở thành một nhà khoa học. Nhưng giờ đây ông ấy đang là tù binh trong một trại. Chú đừng sợ, ông ấy sẽ trở về vào mùa xuân này.

Khi chú trông thấy một người mặc bộ đồ xám, tay sách hai cái vali thì đó chính là anh trai của chú đấy!

Câu chuyện thật khó tin, ông tôi không thể tin được là người anh trai bị mất tích của mình trở thành một nhà khoa học Xô Viết, cũng không tin chuyện ông trở thành tù binh. Lần này thì ông không tin ở Vanga nữa và không có hy vọng sẽ gặp lại anh trai.

Nhưng ngày tháng trôi đi và một hôm một người lữ hành mệt mỏi dừng lại trước ngôi nhà của ông tôi. Trên người ông ta mặc một bộ đồ xám và dưới đất đặt hai chiếc va ly. Không ai biết ông ta cả. Cả ông ngoại tôi cũng không thấy quen. Nhưng đó chính là anh trai Nicôla của ông. Người em trai út đã trở về quê hương sau 22 năm phiêu lãng. Sau đó ông đã xác nhận tất cả những gì Vanga nói là đúng.

Tham gia từ năm 1919 vào hoạt động của các tổ chức cộng sản, năm 1912 hai anh em Sêrô và Nicôla buộc phải chạy trốn sang Nga. Nicôla đến Ođetxa. Sau nhiều năm gian khổ, ông tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sư điện. Ông đã tham gia xây dựng các nhà máy thuỷ điện ở tất cả các nước cộng hoà Xô viết. Khi quân Đức xâm lược Liên Xô, Nicôla bị bắt làm tù binh và bị đưa về Đức. Sau nhiều lần bị tra tấn dã man, ông trốn thoát được khỏi trại. Sau chiến tranh, ông quyết định trở về Bungari.

Mùa xuân năm 1944, vào mùa anh đào chín, chồng của Vanga từ Hy Lạp trở về. Ông chỉ còn lại một nửa. Vì uống phải nước đầm lầy độc, gan ông sưng to và ông thường phải chịu những cơn đau khủng khiếp. Ông yếu đến nỗi không cầm nổi chiếc rìu trong tay nữa. Nhưng nhớ lời hứa với Vanga, ông bắt đầu dựng một ngôi nhà mới – 1945.

Càng ngày càng nhiều người đến mong ở sự giúp đỡ của Vanga. Bà dậy từ lúc trời còn sáng, nấu ăn cho những người thợ tới giúp Đimitơrơ dựng nhà, sau đó tiếp những người mong được gặp bà.

Một sĩ quan cùng vợ từ Xôphia đến gặp Vanga nhiều lần. Người ta đã quen mặt họ, thậm chí một số người còn ghen tị với vẻ hạnh phúc của họ nữa. Nhưng Vanga nói: Đừng vội ghen tị. Tương lai sẽ cho thấy có đáng ghen tị không. Sau này người ta điều tra rằng trong chiến tranh, viên sĩ quan là một tên đao phủ. Hắn đã bị kết án tử hình.

Nghe tin này, Vanga nói với những người khách của mình “Đừng có ghen tị với bất cứ ai trước khi biết chung cuộc của cuộc đời anh ta”.

Còn một trường hợp của những năm đó nữa. Một người đàn bà vùng Petritrơ để lạc mất đứa con gái ba tuổi của mình ở chợ, tìm khắp nơi không thấy, người mẹ bất hạnh tới gặp Vanga. Vanga nói rằng con gái của bà bị những người Digan bắt trộm. Bây giờ tìm kiếm chỉ vô ích, mà nhiều năm sau hai mẹ con mới lại sẽ gặp được nhau.

Hai mươi năm sau, người đàn bà đó đến Blagoegrat và tình cờ nghe được câu chuyện câu chuyện của hai người đàn bà trên sân ga Krexana. Nhờ đó bà biết rằng ở một làng gần đó có mấy gia đình Digan sống. Một cô gái Digan trẻ khác biệt hẳn với đồng bào của mình vì có mái tóc màu hạt dẻ sáng, đôi mắt xanh và những cử chỉ không giống dân Digan.

Một cái gì đó run rẩy trong tim người mẹ – đã bao năm bà chờ đợi lời tiên đoán của Vanga trở thành hiện thực. Bà tìm đến làng đó, dễ dàng tìm được nhà của cô Digan có mái tóc màu hạt dẻ. Tim bà như muốn vỡ ra vì hồi hộp. Người đàn bà Digan trẻ không tin lời kể của bà ta và nói rằng từ bé đến lớn cô ta sống với những người Digan, còn chồng của cô ta thì muốn tống cổ mụ già lếu láo. Nhưng “bà mẹ vợ” đã quát anh ta im mồm và kể rằng nhiều năm trước đây những người Digan khác đã trao cho bà ta cô bé bắt trộm được tại một hội chợ ở vùng Petritrơ.

Người đàn bà tội nghiệp bèn kể cho cô gái nghe về tuổi thơ và trong tâm trí của cô ta đã có điều gì đó mơ hồ như đang sống lại. Mắt cô mờ đi và cô nhớ lại được rằng hồi bé cô sống trong một ngôi nhà trong sân có một cái giếng sâu và gần đó có một tảng đá rất to. Hoàn toàn tin tưởng là mình đã tìm được con gái, người đàn bà mời cô gái đi với mình về làng. Đến đó, cô gái Digan nhớ lại được rằng mình có một người anh trai nữa. Cô nhận ra ngôi nhà cũ và đi lại một cách tự tin. Người làng kéo đến. Cuộc gặp mặt diễn ra rất cảm động. Nhiều người không cầm nổi nước mắt.

Tháng 5 năm 1944, em trai út Tôme của Vanga cũng tới Đức trở về và dừng chân ở Xtrumitse. Còn ngày 10 tháng 6, người em trai khác là Vaxin đột ngột xuất hiện ở Petritrơ để từ biệt mọi người: Anh muốn đến Xtrumitse gia nhập đội du kích.

Hồi ấy, vào thời gian cuối cuộc đại chiến, Lữ đoàn du kích Makeđôn thứ tư được thành lập ở Xtrumitse. Nhiều trai tráng ghi tên gia nhập đội quân du kích. Liupka cũng quyết định bí mật đi cùng với họ. Riêng với em trai, Vanga khóc khuyên anh đừng đi. Bà nhắc đi nhắc lại: Đừng đi, người ta sẽ giết em khi em mới 23 tuổi mất thôi. Người em trai không tin. Thế là hai anh em Liupka tới Xtrumitse gia nhập du kích.

Ngày 8 tháng 10 năm 1944, Vaxin, lúc đó đã trở thành chỉ huy một phân đội công binh nhận nhiệm vụ phá sập một chiếc cầu gỗ gần làng Turka. Các đơn vị Đức đang rút lui qua chiếc cầu này. Vaxin hoàn thành nhiệm vụ nhưng chẳng may chứng minh thư của anh lại rơi tại trận địa. Bọn Đức tìm thấy chiếc chứng minh thư ấy. Một người kiếm củi bị bắt đã khai rằng có nhìn thấy chàng trai này trong làng. Lập tức toàn bộ dân làng bị lùa vào ngôi nhà thờ. Cả Vaxim cũng bị lùa vào trong ấy. Để cứu mọi người, Vaxim đã bước ra và nói: Chính tao đã phá cầu. Vaxim đã chết hết sức đau đớn.

Vaxim chết vào ngày 8 tháng 10 đúng 23 tuổi tròn!

Năm 1947, chồng Vanga xây dựng xong nhà và bị ốm nặng. Ông kiệt sức sau khi từ Hy Lạp trở về và ngôi nhà càng làm ông cạn kiệt. Ông thường thấy những cơn đau trong dạ dày, một người bạn mách ông làm dịu cơn đau bằng cách mỗi ngày uống một cốc rượu. Đimitơrơ làm theo và ông không kịp nhận thấy là mình dần dần trở nên nghiện ngập. Ông thường đóng chặt cửa, uống một mình. Có thể là trong lòng ông có một tấn bi kịch nào đó nhưng ông không muốn chia sẻ với mọi người. Cả Vanga, cả bác sĩ đều khuyên Đimitơrơ phải thay đổi cách sống, nhưng ông không muốn nghe ai hết. Vanga đi lại trong nhà như một cái bóng dưới hai mi mắt quầng thâm. Đêm đêm bà khóc thầm. Bà biết rằng tình thế của chồng mình đã vô vọng nhưng bà giấu kín điều đó trong lòng và thầm mong rằng chúa Trời sẽ ban cho một phép lạ.

Đimitơrơ chữa bệnh bằng rượu trong vòng 12 năm trời cho đến khi phải vào bệnh viện. Kết quả chẩn đoán: xơ gan, Vanga tuyệt vọng. Bà luôn luôn ở cạnh chồng. Khi bác sĩ kín đáo ngụ ý rằng mọi chuyện sắp kết thúc, Vanga nói: “Tôi biết. Cái chết đã đến gần lắm rồi”. Vào một trong những ngày cuối cùng, Đimitơrơ thấy nhẹ nhõm hơn và thiếp đi. Vanga cũng thiếp đi ngay trên sàn, dưới chân giường của ông. Liên tục sáu tháng trời Đimitơrơ nằm viện, bà tận tuỵ chăm sóc chồng.

Mẹ tôi kể lại những ngày đau buồn ấy:

- Khi Đimitơrơ hấp hối, Vanga quỳ gối trước giường của ông, nước mắt chảy ròng ròng từ đôi mắt mù của chị ấy. Chị ấy thì thầm một cái gì đó. Hoặc là cầu xin chúa Trời xá tội, hoặc là từ biệt với chồng – tôi không biết rõ, Đimitơrơ mất ngày 1 tháng 4 năm 1962, thọ 42 tuổi. Khi Đimitơrơ tắt thở, Vanga thôi khóc và thiếp đi. Chúng tôi làm tất cả mọi việc cần thiết, mọi người kéo đến chia buồn nhưng Vanga vẫn ngủ. Chị ấy ngủ cho đến tận lúc làm lễ hoả thiêu. Sau đó bà nói: “Tôi tiễn anh ấy đến tận chỗ định trước cho anh ấy”.

Sáng sớm hôm sau, tôi ra nói với những người đến chờ gặp Vanga rằng chồng chị ấy mới chết, chị ấy không thể tiếp ai được cả. Nhưng Vanga lập tức phản đối: “Gọi mọi người lại đây. Tôi sẽ tiếp tất cả mọi người. Họ cần tôi”.

Từ ngày đó, chúng tôi, các cháu gái của Vanga – Kraximira Anna và Đimitơrơ và cả mẹ của chúng tôi là Liupka nữa trở thành những người chứng kiến cuộc sống goá bụa, cay đắng dài đằng đẵng của bà.

Tôi nhớ bác tôi vào những ngày đó: dưới tấm khăn len goá bụa là gương mặt tái nhợt bất động. Toàn bộ con người bà sống cuộc sống nội tâm tập trung một cách căng thẳng, tách rời hoàn toàn khỏi thế giới chung quanh. Còn dòng người thì vội vàng cứ đến, cứ đến mỗi ngày một đông hơn từ khắp mọi nơi trên Trái đất. Họ, những con người khác nhau, từ thông thái cho đến mù chữ, những người tin và những người hoài nghi, những người khoẻ mạnh và những người đau ốm, họ bước qua cửa nhà Vanga với giễu cợt hoặc với nỗi sợ. Vanga không từ chối một ai hết.

Tôi còn nhớ một trường hợp xảy ra đã lâu. Một người phụ nữ trí thức trẻ đến với mẹ ở Xunđanxki nhờ mẹ dẫn đến gặp Vanga. Chỉ vì tò mò thôi, lúc đó sân nhà Vanga đang có rất nhiều khách xếp hàng chờ đến lượt mình. Vanga bỗng bước ra khỏi cửa và gọi đúng tên ông, thậm chí còn gọi đúnh tên thân mật chưa từng sử dụng ngoài khung cảnh gia đình. Không tin ở tai mình nữa, cha tôi đi theo Vanga vào nhà. Sau đó Vanga kể rất nhiều chuyện đúng về quá khứ của ông. Cha tôi lấy vợ hai lần, Vanga đã mô tả đúng đám cưới của ông, kể nhiều chi tiết tỉ mỉ đến nỗi có chi tiết mẹ tôi cũng không biết. Sau đó Vanga nói về tương lai. Bà nói rằng mười bốn năm nữa ông sẽ chết vì bệnh ung thư. Bà nói cả về tôi và em trai tôi nữa. Bà nói rằng tôi có hạnh phúc nhưng chồng tôi sẽ chết sớm, tôi sẽ goá bụa với đứa con nhỏ trên tay. Sau đó tôi sẽ lấy chồng lần thứ hai và lần này tôi sẽ không hạnh phúc. Về em trai tôi thì Vanga nói số phận của nó rất bi thảm: Nó sẽ chết trong một trường hợp không may khi vừa 20 tuổi.

Cha tôi rất kinh hoàng khi nghe Vanga phán như vậy. Ông định giữ kín bí mật này, nhưng không chịu đựng nổi nên đã tiết lộ với người vợ thứ hai của mình do đó mà chúng tôi được biết. Thời gian trôi đi, cha tôi bắt đầu ốm. Thoạt đầu, ông nghĩ là ông bị loét dạ dày. Người ta mổ cho ông hai lần. Lần thứ hai chỉ mổ ra rồi đóng lại. Ông mất năm 1958 vì bệnh ung thư, đúng vào ngày mà Vanga đoán trước.

Bản thân tôi lấy chồng và cảm thấy rất hạnh phúc. Nhưng chồng tôi đột ngột ốm và chết. Lần lấy chồng thứ hai tôi không gặp vận may và đành phải li dị. Trước đó không lâu em trai tôi ngã tàu điện chết. Nó mới hai mươi tuổi. Tất cả những gì Vanga tiên đoán đã lần lượt diễn ra chính xác đến kinh ngạc.

Và một trường hợp như thế này nữa, đứa con nhỏ của một nhà hàng xóm chúng tôi ốm ba tuần liền, nhiệt độ lúc nào cũng giữ ở mức 38o – 39oC. Các bác sĩ không xác định nổi nguyên nhân của căn bệnh mặc dù hết sức cứu chữa, bệnh tình vẫn không hề thuyên giảm. Chúng tôi mang đứa trẻ đó đến cho Vanga xem. Bà bắt đi mua ngay một số loại lá thuốc về đun nước tắm cho đứa bé. Sau lần thứ nhất nhiệt độ bắt đầu xuống, lần thứ hai đứa trẻ bắt đầu chơi, và chẳng bao lâu đã khỏi hẳn.

Một nữ diễn viên ba lê người Nga lấy chồng người Bungari sau khi sinh con thấy có hiện tượng mất chức năng của các cơ quan vận động. Các bác sĩ chẩn đoán rằng cô ta sẽ không múa được nữa. Người ta mách cho cô gặp Vanga. Người nữ diễn viên vô cùng sung sướng khi nghe Vanga nói rằng chẳng bao lâu nữa cô sẽ khỏi, sẽ còn sinh thêm hai đứa con nữa và sẽ múa cho sự vinh quang của nền ba lê Nga.

Chuyện xảy ra đúng như vậy.

…Sau cái chết của người chồng Vanga không thể xử lý hết được số người xúm trước ngôi nhà của bà nữa. Một lần họ chen lấn và suýt đè bẹp chính Vanga. Sau trường hợp này, bà yêu cầu cha mẹ tôi chuyển đến Petritrơ sống cùng với bà để hỗ trợ cho cuộc sống của bà. Đó là vào năm 1966.

Bây giờ tôi sẽ dẫn lời cha tôi kể về Vanga.

- Gia đình chúng tôi thường hay nói chuyện về Vanga, bố mẹ tôi đều rất kính trọng chị ấy và thường nói ý kiến của chị ấy trong nhiều việc. Đáng ngạc nhiên nhất là chị ấy đã biết tôi và số phận của tôi trước khi gặp tôi (khi tôi đang ở lính) và tiên đoán đúng rằng tôi sẽ lấy em gái của chị ấy.

Các con tôi cũng được chị ấy đoán trước số phận. Tất cả đều diễn ra đúng như chị ấy tiên đoán.

Chẳng hạn Vanga nói rằng con gái đầu lòng của chúng tôi sẽ học ngoại ngữ, thích chữ tượng hình, sau khi tốt nghiệp phổ thông sẽ thi vào khoa ngữ văn Bungari, nhưng nó sẽ nghe lời khuyên của người khác và chuyển qua học tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó nó học các thứ tiếng nước ngoài khác nữa và học cả chữ tượng hình. Con gái út của chúng tôi thì Vanga tiên đoán sẽ trở thành bác sĩ giỏi. Con bé có khiếu âm nhạc, chơi dương cầm hay và mơ ước về một sự nghiệp âm nhạc. Quả thật, Anna của chúng tôi trở thành một bác sĩ giỏi. Còn con trai Đimitơrơ của chúng tôi thì Vanga bảo nó sẽ trở thành thợ cơ khí và đúng là nó đang làm thợ cơ khí thật.

Rất nhiều người không tin vào khả năng kỳ lạ của Vanga cho rằng bà có những người giúp việc chuyên đi điều tra những thông tin cần thiết về những người đến nhờ bà giúp đỡ. Điều đó không chỉ không đúng mà còn không thể có được vì có hàng ngàn người từ khắp thế giới về đây gặp Vanga. Làm sao có thể điều tra về họ được. Ngoài ra, Vanga còn đoán trước số phận của trẻ sơ sinh và cả những trẻ chưa sinh nữa, nhìn thấy và nói chuyện với những người đã chết từ hàng trăm năm trước đây, với những người mà thậm chí cả họ hàng thân quyến của họ đã lãng quên họ. Vanga biết cây cỏ, vị thuốc nào chữa được những cơn bệnh nghiêm trọng mà y học đã bó tay. Làm sao bà lại có khả năng kỳ lạ đó?

Đây là câu hỏi mà chúng ta cần tìm câu trả lời!

Khi Vanga thấy rằng không thể giúp khắp lượt hàng nghìn người tập trung ở nhà bà, bà yêu cầu chính quyền giúp đỡ. Người ta thông cảm với những lo lắng của bà và thi hành các biện pháp giúp đỡ. Thế là từ ngày 3 tháng 10 năm 1967, Vanga, theo chính lời bà nói, đã bắt đầu đi làm việc Nhà nước. Người ta cử ra những người điều hành trật tự trong sân nhà bà, quan tâm đến giờ giấc nghỉ ngơi của bà.

Nói cách khác, Vanga đã được chính thức công nhận, và bà trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học nghiêm túc, đứng đầu là tiến sĩ Gheocghi Lôdanốp.

Đáng tiếc là công việc này bị dừng lại và các tư liệu thu được đã không được công bố (ít ra là ở Bungari). Nhiều người muốn đọc các tài liệu về Vanga nhưng không thể kiếm ra, và do đó nảy ra mối nghi ngờ ở đây có một điều bí mật gì đó mà chính phủ Bungari muốn giữ. Ở Bungari lan truyền đi những lời đồn đại lạ lùng. Chúng càng làm tăng thêm sự tò mò đối với khả năng của Vanga. Năm 1966, một tạp chí đã đăng một tư liệu đầu tiên về Vanga, trong đó ngoài lời phỏng vấn tiến sĩ Lôdanốp ra còn có những cố gắng nhằm giải thích hiện tượng này. Trong thời gian đó, ở nước ngoài tư liệu về Vanga tiếp tục được công bố. Bà trở nên rất nổi tiếng: những bức thư và lời chào từ rất nhiều nước trên thế giới gửi về chứng tỏ điều đó.

Từ năm 1970, ở Mỹ người ta đã xuất bản một cuốn sách về những người có khả năng lạ. Ở chương đầu tiên gọi là Vanga Đimitrôva – Nhà tiên tri Bungari, các tác giả đã dựa trên cơ sở mô tả một loạt sự kiện trong cuộc sống của Vanga và những đoạn phỏng vấn những người đã gặp bà để cố gắng giải thích: hiện tượng và đưa ra một loạt vấn đề thú vị. Chương này dài gần 30 trang và là bài nghiên cứu sâu sắc nhất hơn cả hiện tượng tiên tri cho tới thời gian đó.

Điều lạ lùng nhất trong khả năng kỳ lạ của Vanga là việc bà “tiếp xúc” (cũng chẳng thể dùng một từ nào khác ở đây) với những người chết. Quan niệm của Vanga về cái chết khác hẳn với quan niệm chung. Tôi dẫn dưới đây một trong những cuộc nói chuyện của Vanga và nhà đạo diễn P.I (năm 1988).

- Tôi đã nói với anh là sau cái chết, thân thể bị phân huỷ, tiêu biến đi như mọi sinh vật khác. Nhưng có bộ phận của cơ thể không bị tiêu huỷ.

- Có lẽ bà muốn nói đến linh hồn của con người?

- Tôi không biết là phải gọi như thế nào. Tôi cho rằng cái không bị tiêu huỷ trong con người sẽ phát triển lên một trạng thái cao hơn mà chúng ta còn chưa biết gì cụ thể về nó cả. Nhưng có thể mô tả nó như thế này: một người chết mù chữ, sau đó chết như một học trò, sau đó chết với trình độ đại học, và sau đó chết như một nhà bác học.

- Như vậy có nghĩa là có tới mấy cái chết chờ đợi một con người?

- Có tới mấy cái chết, nhưng cái ban đầu tối thượng không chết.

Đối với Vanga, cái chết chỉ là sự kết thúc của thể xác, còn con người vẫn bảo tồn sau cái chết.

Một lần Vanga kể cho một người đàn ông về bà mẹ đã chết của anh ta, anh ta nói: Có phải sự có mặt của tôi đã gợi lên hình ảnh người mẹ đã chết của tôi không? Vanga trả lời: Không, hình ảnh tự chúng đến. Đối với họ, tôi là cái cổng để họ bước vào thế giới này.

Vanga kể cho tôi nghe chuyện sau đây: “Một lần có một người đàn bà trẻ tuổi đến gặp bác, bác lập tức hỏi cô ta: Cô có nhớ người mẹ đã chết của cô có một cái sẹo ở đùi trái không? Cô ta trả lời là có và hỏi tại sao bác biết chuyện đó. Tại sao ư…Vì bản thân người chết đang đứng trước mặt bác. Đó là một người đàn bà trẻ. Bác nhớ là bà ta vén tà váy lên và nói: Bà hãy hỏi con gái tôi xem nó có nhớ cái sẹo sau lần ngã này không. Sau đó người chết nói với bác: Bà hãy nhắn qua vị khách của bà cho Magdalena là đừng tới nghĩa địa nữa. Cô ấy đi lại khó khăn lắm, cô ấy không có đầu gối. Magdalena là em gái của người chết. Cô ta phải dùng chân giả.

Lại còn một trường hợp như thế này nữa. Một người đàn bà có con phục vụ trong quân đội không may gặp tai nạn chết. Bà ta tới gặp Vanga. Vanga hỏi:

- Chàng trai tên gì?

- Marko – Người mẹ trả lời.

- Nhưng cậu ấy lại nói với tôi rằng cậu ấy tên là Mario.

- Vâng, đúng vậy, ở nhà chúng tôi gọi nó là Mario.

Qua Vanga, chàng trai còn thắc mắc tại sao không nhìn thấy em gái. Bà mẹ trả lời là em gái anh ta đã tốt nghiệp đại học và hiện đang làm việc ở một thành phố khác.

Khả năng đặc biệt này của Vanga đã gây ấn tượng mạnh đối với nhà phê bình văn học nổi tiếng Dđravkô Petrôp. Ông đã cho in năm 1975 những tư liệu vô cùng thú vị mang đầu đề “Người đàn bà Bungari tiên tri” trong một tạp chí uy tín ở Xôphia. Tôi xin lược trích bài báo đó:

“Cho đến mùa thu năm 1972, tôi đánh giá rất thấp hiện tượng nhà nữ tiên tri sống ở thành phố nhỏ Petritrơ gần biên giới Hy Lạp. Từ sáng sớm tinh mơ, rất nhiều người đã tụ tập trong nhà bà. Bà biết về số phận của những người mất tích, vạch trần các tội ác, đưa ra các chuẩn đoán y học, kể về quá khứ. Điều thú vị là bà không chỉ nói về hiện tại mà cả về tương lai. Bà nói chuyện tuyệt đối chính xác về nhiều chuyện”.

Trong một số buổi tiếp mà tôi có mặt, Vanga đề nghị khách của mình đưa cái đồng hồ đeo cho bà (thông thường người ta đưa cho bà một miếng đường). Người khách ngạc nhiên khi thấy Vanga muốn sờ nắn cái đồng hồ để đoán. Nhưng Vanga nói: “Tôi cầm trong tay không phải đồng hồ mà là bộ não của anh”.

Một lần tôi tình cờ đến Petritrơ để nghỉ ngơi mấy ngày. Trong thời gian đó, tôi tới nhà người đàn bà tiên tri nghe rồi lại đi. Thành thực mà nói tôi không có ý định trở thành đối tượng tiên đoán của bà. Hình như Vanga hiểu tâm tư của tôi trong những ngày đầu tiên tôi tới Petritrơ nên sau này bà nói với một người bạn của tôi: “Anh ấy đến với ý định không muốn biết gì về mình cả, nhưng tôi đã nói hết cho anh ta”. Và bà bật lên cười cái cười đặc trưng của bà.

Nhưng những điều thú vị nhất diễn ra về sau.

Người bạn đã giới thiệu tôi với Vanga có ôtô và anh ấy đề nghị chúng tôi vào thành phố sau bữa ăn trưa. Anh mời cả Vanga và em gái của bà nữa. Chúng tôi tới cạnh làng Xamôilôvơ, gần đó có những đống đổ nát của một thành phố xưa do vua Xamuil xây dựng. Khi đi trong xe, chúng tôi hoàn toàn im lặng. Khi đến nơi, chúng tôi quyết định xem pháo đài một tí. Vì không nhìn thấy gì nên Vanga và em gái của bà ngồi lại trên xe nói chuyện với nhau. Tôi đi lại cách đó không xa. Khi tôi cách xe khoảng 7 – 8 mét, bỗng Vanga bắt đầu nói – Tôi hiểu là những lời nói của bà nói về tôi. Bà làm tôi kinh hoảnh ngay từ câu nói đầu tiên: Ông bố Petrơ của anh đang ở đây. Tôi đứng sững như Hămlet khi thấy hồn ma người cha của mình. Tôi có thể trả lời gì đây? Cha tôi đã chết trước đó 15 năm. Vanga bắt đầu nói về ông, chi tiết đến nỗi tôi chết sững vì kinh ngạc. Bà nhắc đi nhắc lại mấy lần rằng bố tôi đang đứng trước mặt bà. Tôi cũng không hình dung ra được phép chiếu hình mà ông đang ở trong là quá khứ, hiện tại hay tương lai. Thậm chí Vanga còn chỉ tay lên ông nữa. Rõ ràng là bà nhận được những thông tin (Nhận như thế nào?!) về những sự kiện trong nhà chúng tôi cũng quên từ lâu. Đối với Vanga không tồn tại các khái niệm quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong trí não bà thời gian là một dòng chảy thống nhất, ít ra là tôi có cảm tưởng như vậy. Bà biết rằng ông là một luật sư nhưng đã có thời gian dạy chính trị kinh tế học và luật dân sự trong một trường phổ thông trước năm 1944.

Sau đó, Vanga bắt đầu nói về ông chú của tôi. Bà nêu tên hai người. Về người chú thứ ba đã chết một cách bi thảm tự tôi kể với bà. Cái chết của ông bị bao phủ bằng một bí mật. Vanga nói rằng nguyên nhân cái chết của ông là sự phản bội. Tôi rất ngạc nhiên khi bà bỗng hỏi: “Trong gia đình anh ai tên là Matei?”. Tôi trả lời đó là tên của ông tôi. Ông chết khi tôi mới năm tuổi. Đã 40 năm trôi qua từ ngày ấy, không hiểu tại sao Vanga lại biết được tên ông.

Khi tôi trở về Xôphia, một người bạn nghe chuyện hỏi tôi liệu có mơ về ông mình trong thời điểm đó không. Tôi trả lời: Không! Tôi rất ít nghĩ về ông, thậm chí ngay cả khi đang ở Xôphia, nơi có một số họ hàng của tôi, nghĩa là nơi đó có lý do để thỉnh thoảng nhớ về ông. Thậm chí cả những người bạn thân nhất của tôi cũng không biết tên ông.

Vanga nói về những người ruột thịt của tôi khá lâu, khoảng 10-15 phút. Bà kể cả về cô cháu gái của tôi đã nhầm khi làm bài thi vào trường tổng hợp. Bà nói cả về những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống, chẳng hạn về việc hệ thống hơi nóng để sưởi trong căn hộ của tôi bị hỏng. Sau đó bà khuyên tôi nên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nhiều hơn nữa. Bà nói: hãy để cho mặt Trời trở thành chúa Trời của anh! Sau đó bà nói tôi có hai bằng đại học (hai cái đầu, theo cách nói của bà).

Vanga nói rằng bà trông thấy những chiến binh của vua Xamuil. Họ đi thành đội ngũ trước mắt bà. Lịch sử ghi lại rằng họ đã bị chặt đầu theo lệnh của vua Vaxili II. Vanga hỏi tôi ai đã ra lệnh chặt đầu họ, và y người dân tộc nào. Tôi rất ngượng vì lúc đó tôi không nhớ, tôi đã quên hoàn toàn lịch sử triều đại đó. Sau này một người bạn cứ hỏi tôi làm sao lại có thể quên vua Vaxili II một khi biết rõ về lịch sử đế quốc Hy Lạp đến thế. Có lẽ lúc đó tôi quá khinh ngạc trước khả năng kỳ dị của Vanga mà quên mất chăng.

Tôi đã có thể tìm hiểu khả năng nhìn thấy quá khứ và tương lai của Vanga. Giữa chúng tôi có những cuộc nói chuyện vô cùng thú vị.

Vanga nói về cái chết. Chúng tôi không dời mắt nổi khỏi gương mặt bất động của bà. Rõ ràng là bà nhìn thấy một cái gì đó. Bà kể về một số trường hợp khi bà cảm thấy cái chết đến. Bà kể rằng bà thấy trước chính xác giờ chết của chồng mình. Sau đó bà kể là một lần bà đang nấu mứt mận trong sân, bà nghe rõ cái chết gầm gào trên những ngọn cây. Trong trí tưởng tượng của Vanga cái chết mang hình một người đàn bà đẹp, tóc để xoã. Tôi có cảm tưởng trước mặt tôi là một nhà thơ chứ không phải là một nhà tiên tri.

… Một lần một người đàn bà trẻ từ Xôphia tới gặp Vanga. Vanga quay mặt về phía cô ta và hỏi ngay:

- Thế bạn trai cô đâu?

Người đàn bà trả lời rằng đã chết đuối trong một lần đi tắm mấy năm trước.

Vanga mô tả người thanh niên và nói rằng nhìn thấy anh ta như người sống, rằng anh ta đang nói chuyện với bà.

- Tôi nhìn thấy anh ta trước mắt mình. Anh ta cao lớn, da ngăm ngăm và trên má có một cái nốt ruồi. Tôi nghe thấy tiếng nói của anh ta. Anh ta có chút khuyết tật trong giọng nói.

Người đàn bà nói tất cả đều đúng. Vanga tiếp tục:

- Anh ta nói với tôi: Chẳng ai có lỗi trong cái chết của tôi cả. Tôi tự ngã xuống nước và bị gãy cột sống. Anh ta hỏi ai được cái đồng hồ và các đồ vật khác của anh ta. Anh ta đang nhớ lại những người thân và bạn bè cũ. Anh ta khuyên người yêu cũ nên lấy chồng trong thời gian tới và nói rằng cuộc hôn nhân đó sẽ hạnh phúc.

Một nhà khoa học người Tây Ban Nha có danh hiệu giáo sư kể với Vanga rằng mẹ của ông ta là một người rất nhân hậu. Nhưng bà đã sống suốt đời nghèo khó. Vanga ngắt lời ông ta và nói:

- Để tôi kể tiếp cho ông nghe. khi sắp chết, mẹ ông nói: “Mẹ chẳng có gì để lại cho con ngoài một chiếc nhẫn gia bảo. Con hoàn toàn đơn côi. Chiếc nhẫn đó sẽ giúp đỡ con và bảo vệ con trong suốt cuộc đời”.

Nhà khoa học kinh ngạc nói rằng tất cả đều đúng như vậy.

- Được – Vanga nói tiếp – thế chuyện gì đã xảy ra với chiếc nhẫn?

Người Tây Ban Nha kể lại rằng một lần, khi ông trở đã trở thành một nhà khoa học có tiếng, ông đi nghỉ ở biển, chiếc nhẫn bị tụt khỏi ngón tay và rơi xuống nước, ông đã cố gắng tìm kiến nhưng không thấy.

- Ông đã làm gì thế, hỡi con người kia! Ông đã đánh đứt mối liên hệ với mẹ mình rồi! – Vanga kêu lên.

Nhà khoa học ngượng ngập thú nhận rằng đôi lần trong đầu ông cũng thoàng qua ý nghĩ đó, nhưng là một nhà khoa học có thế giới quan duy vật, ông đã xua đi ý nghĩ này. Nhưng từ khi chiếc nhẫn mất, ông liên tiếp gặp những không may.

Mấy năm trước, trong một trận lụt một đôi vợ chồng mất đứa con duy nhất của họ. Về lôgích thì có thể đoán là đứa trẻ chết đuối, nhưng họ không muốn tin vào điều đó. Họ tới gặp Vanga để được biết sự thật. Vanga nói với họ: “Đừng khóc. Số phận con của anh chị là như vậy. Nó quả là không còn sống nữa rồi, nhưng thi thể nó không ở chỗ mà người ta tìm. Nó ở dưới chỗ mà con sông rẽ ngang. Ở đó có những cây toả ra và thi thể nó bị mắc vào đó. Tôi nhìn thấy nó như đang còn sống. Nó vươn tay về phía tôi, nó gọi tôi để tôi chỉ cho anh chị chỗ đó. Nó muốn được chôn cất”.

Một thời gian sau, người nhà của đôi vợ chồng nọ đến để cám ơn Vanga vì họ đã tìm được thi thể của đứa bé chính ở chỗ Vanga chỉ ra.

Những trường hợp như thế có hàng nghìn, không thể kể xuể được và phải công nhận rằng đây không phải là một đề tài dễ chịu.

Vanga không chỉ nhìn thấy thế giới của những người chết. Bà còn nhìn thấy sự tàn lụi và sự phục sinh của các thành phố. Chẳng hạn thành phố Mennic. Bà kể:

- Mỗi cọng cỏ, mỗi hòn đá, mỗi tấc đất ở đây đều thiêng liêng, ở đây tôi thấy rất dễ chịu và nghỉ ngơi tốt hơn mọi nơi khác. Ở đây tôi nhận thêm năng lượng, sức lực và sự hứng khởi. Tôi ngồi lên một hòn đá nào đấy và im lặng. Đừng ai nên quấy rầy tôi vào lúc này. Tất cả những gì quanh tôi đang nói chuyện với tôi – cả các hòn đá, các đống đổ nát và cả bóng râm nữa. Thành phố kể cho tôi nghe lịch sử của những thế kỷ đã qua từ lâu. Tôi nhìn thấy những con người đã chết, những đền miếu đã bị phá huỷ, những ngôi nhà được dựng lên từ hàng ngàn năm trước đây.

…Một lần tôi đến Mennic cùng với em gái tôi. Cô ấy mang theo đứa con trai sáu tháng tuổi. Tôi có cảm tưởng như tâm hồn thằng bé nói với tôi bằng giọng nói của Vanga “Bác ơi, bác có nhìn thấy Mennic không? Nó giống bác quá!?”

Tôi rất buồn và bật khóc: Tại sao lại giống Mennic? Vanga ngụ ý gì? Lịch sử cổ xưa của thành phố này hay là sự hoang tàn, trống vắng của nó?

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi.

Vào đầu những năm 70, Vanga rất muốn ngày ngày đến Mennic và tiếp các vị khách đông đảo của mình ở đấy. Bà cho rằng ở thành phố này, khả năng của bà thể hiện mạnh mẽ nhất, rằng ở đó bà có thể kể mọi chuyện thú vị về mọi người. Nhưng những hoạt động như thế trong thành phố bé nhỏ này gặp phải một loạt những vấn đề và ý muốn của Vanga không thể thực hiện được.

Lại thêm một trường hợp thú vị nữa.

Năm 1983, đạo diễn P.K chia sẻ với Vanga về ý định dựng một bộ phim về Orphei. Vanga nói ngay rằng sẽ chẳng thành công được vì quan điểm của nhà đạo diễn về nhân vật thần thoại này hoàn toàn sai lầm. Bà nói như sau: cuộc nói chuyện này được ghi lên băng ghi âm:

- Khả năng của Orphei không phải thánh thần mà có nguồn gốc từ Trái đất. Ông ta nghe Trái đất và hát. Những thú hoang đứng nghe ông hát nhưng không hiểu gì cả. Orphei là người Trái đất. Ông ta cảm thấy sung sướng trên mặt đất. Ông nghe những giai điệu của Trái đất, những giai điệu của bầu trời tuyệt diệu hơn nhiều nhưng Orphei không nghe được chúng.

- Anh hãy nói cho tôi nghe – Vanga nói với nhà đạo diễn – trong phim Orphei là người giàu hay người nghèo? Tôi thì thấy ông ta trong bộ quần áo rách tả tơi, nhưng móng tay rất dài. Lúc nào ông ta cũng hát, đất cho ông ta giọng hát. Bởi vậy mà ông ta lôi thôi bẩn thỉu. Anh có xây dựng hình ảnh ông ta như vậy không? Không thể. Điều tồi tệ chính là ở chỗ đó.

Vanga rất thích trò chuyện với các loại hoa. Bà coi chúng là các sinh vật sống cũng như con người. Bà nhất thiết dừng chân trước một bông hoa, vuốt ve nó, tưới nước cho nó và thì thầm điều gì đó. Bà nói rằng những bông hoa kể cho bà nghe nhiều điều thú vị. Hệt như những câu chuyện cổ tích.

Trong số toàn bộ số phận của bà có biết bao nhiêu chuyện không thể giải thích nổi. Nếu sau một cái chết của người thân thiết, bạn đến gặp Vanga thì do ảnh hưởng của sự kiện đau buồn đó, bà có thể phát ốm, thậm chí có lần bà ngất đi. Khi có người như vậy đến, Vanga thường nói ngay: Sao anh không mang hoa đến? Thông tin về người chết đó mà chính sự có mặt của anh cũng đủ thông báo cho tôi được các loài hoa tiếp nhận. Và các loài hoa biết truyền thông tin tế nhị hơn nhiều so với con người và do đó cứu tôi khỏi bị những chấn động mạnh.

Nhưng Vanga không thích bó hoa. Bà nói: “Những bông hoa đẹp nhất khi còn liền cành. Bó hoa cũng như một đám đông, ở đó cá tính con người bị xoá nhoà”

Mẹ tôi nhớ một lần Vanga nhờ bà ra sân, nơi những người muốn gặp Vanga đang xếp hàng chờ và gọi một người đàn bà vào. Vanga nói tên và giải thích: là bà ta là một người trồng hoa ở Xôphia. Được hỏi tại sao lại biết có người trồng hoa đang đợi, Vanga nói: thì bông Thi xa vừa mới nói cho tôi biết đó thôi. Người đàn bà kia muốn hỏi bà hãy nói gì với đứa con hư hỏng của mình. Gọi bà ta đến đây, tôi sẽ nói cái cần nói với bà ta!

Vanga từng nói chuyện rất lâu về đề tài hoa với nhà văn Xô viết Lêônit Lêônôp trong lần nhà văn này tới Bungari vào năm 1980. Bà nói rằng bà ghen tị với Lêônôp về cái vườn hoa rộng có nhiều loài hoa đẹp của ông. Sau đó bà trách Lêônôp việc ông đã tặng cho hội nhà văn Liên Xô chậu dây leo nhiệt đới lớn mà ông có. Bà khuyên ông nên kiếm một cây khác vì loài dây leo có tác dụng gây hứng khởi. Nó là loài hoa của các hoạ sĩ và các diễn viên.

Như tôi đã nói ở trên, Vanga từng nói chuyện với họa sĩ Reric về hoa. Trở lại câu hỏi của ông về ý nghĩa của các loài dược thảo trong y học, Vanga trả lời: “Chuyện này không thể nói bằng một hai lời được. Đó là cả một đề tài. Thế giới bắt đầu bằng thực vật và cũng kết thúc ở thực vật. Cây cỏ ở mỗi nước chỉ có giá trị dược liệu đối với người nước đó. Đã có thiên định như vậy. Mỗi người phải chữa bệnh bằng cây cỏ của đất nước mình”.
duyniceboy is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn