View Single Post
Old 10-10-2010, 08:12 PM   #5
duyniceboy
Super Moderator
 
duyniceboy's Avatar
 
Tham gia: May 2010
Đến từ: HCM
Bài gửi: 1,804
Default

Nguồn gốc và sự ra đời cờ tướng (PII)



Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường. Đây là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ tướng vì tới thời đó, pháo được sử dụng trong chiến tranh với hình thức là một loại máy dùng để bắn những viên đá to. Bấy giờ, từ Pháo trong chữ Hán được viết với bộ "thạch", nghĩa là đá. Cho đến đời nhà Tống, khi loại pháo mới mang thuốc nổ được phát minh thì quân Pháo đã được viết lại với bộ "hỏa".
Kể từ khi xuất hiện Pháo, bàn cờ tướng trở nên cực kỳ sôi động, khói lửa mịt mù từ đầu tới cuối trận với biết bao nhiêu đòn Pháo vô cùng hiểm hóc. Chính cặp Pháo này đã nâng cờ tướng lên một tầm cao hoàn toàn mới, khiến cho cờ tướng trở nên cực kỳ độc đáo, tách rời bỏ hoàn toàn bóng dáng của trò Saturanga. Người châu Âu, châu Mỹ cũng có Pháo nhưng họ không nghĩ tới và không đưa được Pháo vào bàn cờ, muốn có được nó thì phải thay đổi hoàn toàn cấu trúc của bàn cờ. Nếu cờ vua vẫn để nguyên 64 ô đen trắng thì Pháo đặt vào đâu được. Đặt vào có khi lại bị vào trường hợp "quân mình bắn quân ta".





Với bàn cờ được cải tiến như hiện nay, đất rộng và có vô số đường để tung hoành, Mã sẽ phi nước đại trên khắp bàn cờ. Sự thái quá của Mã như thế sẽ làm cho việc tiêu diệt quân trở nên quá nhanh, công mạnh hơn thủ, và nhất là Tướng sẽ bị uy hiếp nặng nề nếu hai Mã đối phương sang được trận địa bên này. Mã trong cờ vua không bị luật cản bởi bàn cờ vua chật hẹp, các Tốt của cờ vua móc xích nhau cản trở rất lớn nên việc tung hoành của Mã so với bàn cờ tướng là khó khăn hơn nhiều. Nếu không có ngoại lệ để giảm bớt đà của Mã trong bàn cờ tướng thì các đòn đánh thâm hậu dễ bị phá sản và vai trò của các quân sẽ bị mất cân đối. Từ khi có luật cản Mã, cờ trở nên ôn hoà, sâu sắc và mưu mẹo phải cao hơn, nghệ thuật dùng quân để "cản Mã" cũng tinh vi hơn, khiến cho Mã dù đã "ngọa tào" hay "song Mã ẩm tuyền" cũng không dễ gì bắt được Tướng đối phương nếu bất ngờ bị một quân khác chèn vào "chân". Những đòn nhằm vào tướng như thế nếu ở cờ vua thì vua hết đường cựa nhưng ở cờ tướng thì vua hoàn toàn có thể rút Xe hoặc Pháo từ trận địa xa phía bên kia về để cứu nguy nhờ phép cản Mã tài tình. Nếu ở Pháo có nguyên tắc mà không người chơi cờ nào không thuộc là "cờ tàn Pháo hoàn" với vai trò hỗ trợ Pháo của Sỹ là vô cùng quan trọng thì đối với Mã ở cờ tàn là việc tích cực ào lên tấn công. Khi đó những nước chống đỡ của đối phương phụ thuộc rất nhiều vào vị trí làm thế nào để cản được chân Mã hơn là làm thế nào để tiêu diệt được Mã, bởi bàn cờ lúc này rất trống trải, Mã tha hồ tung hoành. Quân mã đại diện cho đơn vị lính kị binh, đó lạ sự mô phỏng hình tượng kị binh cầm giáo phi đại đâm xiên kẻ thù. Chính vì bắt buộc phải dùng tốc độ thì sát thương mới cao nên để hạn chế kị binh hay bắt chết mã chỉ có cách là chèn chân tương ứng với "cản mã" như ở trên. Đó là sự tinh tế thâm thúy của người Trung Hoa so với phương Tây dù rằng việc sử dụng kị binh phương tây nắm rất rõ

Tốt


Binh pháp của Trung Hoa không giống như của Ấn Độ. Trên nền tảng quân sự của mình, người Trung Hoa đã sáng tạo ra cách bày quân như sau: Thứ nhất, lính tráng phải ra nơi biên ải để giữ gìn đất nước. Như vậy, sát với sông, người ta cắt cử 5 quân Tốt cách đều nhau để giữ tuyến đầu. Trận chiến bây giờ không nằm ở hai hàng dưới nữa mà đã được đẩy lên rất cao phía trên. Việc các quân Tốt chỉ có số lượng như vậy đã tránh được chuyện "bịt đường" như ở cờ vua, tạo sẵn ra 4 đường mở cho các quân bên dưới có thể năng động xông lên, thậm chí tấn công được ngay chứ không bị bó chân ngay từ đầu như ở cờ vua. Cách bố trí 5 quân Tốt này là phương án tối ưu nhất cho cấu trúc của bàn cờ, vì nếu là 4 hay 6 thì khó đặt ở bàn cờ cho cân đối. Quân Tốt ở đây tương tự như quân Tốt ở cờ vua, chúng đi thẳng theo chiều đứng và có thể ăn quân từng bước một. Khi Tốt qua được sông, chúng có thể đi và ăn theo chiều ngang. Không giống như trong cờ vua, chúng không có luật phong Hậu, hay Xe,... khi đi đến hết bàn cờ, lúc này, chúng được gọi là Tốt lụt. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu cũng không thành một "thảm họa" như trong cờ vua.

Một số thủ thuật khi chơi
Khai cuộc
Có rất nhiều dạng khai cuộc khác nhau, nhưng nói chung, có 2 loại chính: khai cuộc Pháo đầu và khai cuộc không Pháo đầu.
Khai cuộc Pháo đầu
Tên của các khai cuộc được đặt tuỳ theo cách đi của bên đi sau, chỉ nêu vài loại chính:
• Thuận Pháo
• Nghịch Pháo (Liệt Pháo)
• Bán đồ Liệt Pháo
• Pháo đầu đối Bình phong Mã
• Pháo đầu đối Phản cung Mã
• Pháo đầu đối Đơn đề Mã
• Pháo đầu đối Phi Tượng
• Pháo đầu đối Uyên ương Pháo
• Pháo đầu đối Quy bối Pháo
Khai cuộc không Pháo đầu
• Tiến Tốt (Tiên nhân chỉ lộ)
• Khởi Mã cuộc
• Phi Tượng cuộc
• Quá cung Pháo
• Sĩ Giác Pháo
• Quá cung Liễm Pháo
Trung cuộc
Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như:
• Bắt đôi: cùng một lúc đuổi bắt hai quân.
• Nội kích: đánh từ phía trong.
• Kích thẳng vào Tướng.
• Chiếu tướng bắt quân.
• Điệu hổ ly sơn: làm cho một quân hay Tướng phải rời vị trí của nó.
• Dẫn dụ: đây là đòn thu hút quân đối phương đến vị trí dễ bị công kích hoặc bị vây hãm, sau đó kết hợp với chiến thuật bịt chắn lối đi, đường rút của đối phương.
• Tạo ách tắc: dùng chiến thuật thí quân để gây ách tắc, hết đường cựa của đối phương.
• Ngăn trở, chia cắt: đòn này thường dùng cách thí quân để làm sự liên lạc giữa các quân bị cắt đứt.
• Khống chế: chiến thuật này ngằm ngăn trở tầm hoạt động và sự cơ động của đối phương.
• Dịch chuyển: chiến thuật này chú ý đến sự linh hoạt của các quân.
• Bao vây.
• Trợ sức: các quân trợ sức cho nhau để cùng chiếu.
• Vu hồi: đánh vòng từ phía sau.
• Qua lại: chiến thuật này dùng để thủ thế hay công sát.
• Quấy nhiễu.
• Nước lơ lửng: đi một "nước vô thưởng vô phạt" để nhường nước cho đối phương, khiến đối phương phải đi một nước "tự sát".
• Giam quân: khi một bên đang trong tình thế nguy hiểm, nhưng sử dụng một nước khéo léo giam quân mạnh của đối phương (có thể dùng cách thí quân), sau đó dùng các quân còn lại để gỡ bí.
• Vừa đỡ vừa chiếu lại.
• Vừa đỡ vừa trả đòn.
Tàn cuộc
• Xe chống Sĩ Tượng toàn
• Xe Tốt chống Sĩ Tượng toàn
• Mã Tốt chống Sĩ Tượng toàn
• Đơn Mã chống Tướng
• Đơn Tốt bắt Tướng
• Đơn Mã thắng Tướng
• Đơn Xe thắng song Tượng
• Xe và Tốt lụt thắng đơn Xe
• Đơn Xe thắng đơn Tướng
• Tốt chống Tướng
• Tam tử quy biên

Thành ngữ trong cờ tướng

Chơi cờ tướng trên phố ở Trung Quốc
• Mã nhật, Tượng điền, Xe liền, Pháo cách.
• Cờ tàn, Pháo hoàn.
• Khuyết Sỹ kỵ song Xa.
• Khuyết Tượng kỵ Pháo.
• Khuyết Sĩ kỵ Mã.
• Nhất Sỹ chòi góc, cóc sợ Mã công.
• Tốt nhập cung Tướng khốn cùng.
• Mã nhập cung Tướng khốn cùng (hay Mã nhập cung Tướng lùng bùng).
• Xe mười Pháo bảy Mã ba.
• Nhất Xe sát vạn.
• Cờ bí dí Tốt.
• Nhất chiếu nhất cách (đi một nước khác sau mỗi lần chiếu, cầu hòa)
• Được thế bỏ Xe cũng tốt, mất tiên khí tử toi công.
• Nhất tốt độ hà, bán xa chi lực (một Tốt sang sông có sức mạnh bằng nửa Xe).
• Pháo đầu Xuất tướng Xe đâm thọc.
• Pháo đầu Mã đội.
• Pháo giáp Mã
• Mất xe không bằng què Tượng
• Tướng mất Sĩ như đĩ mất váy...
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)

thay đổi nội dung bởi: duyniceboy, 10-10-2010 lúc 08:15 PM
duyniceboy is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn