1>Nguồn gốc của những bộ bài Tây
Trong tất cả các loại bài, bài 52 lá mà ta thường gọi là bài Tây, đúng là phổ biến nhất trên thế giới. Cho tới nay chưa có sách vở nào nói rõ về nguồn gốc của bộ bài này. Có giả thiết cho rằng chính người Trung Quốc chơi bài Tây đầu tiên, còn một số khác lại cho rằng chính người Ba Tư đã phát minh ra nó. Từ năm 1127, người Trung Quốc từng biết chơi các quân bài bằng gỗ được nhuộm nhiều màu, dù các hình vẽ còn đơn giản.
Ban đầu Bài Tây không phải chỉ có 4 nước. Một số loại bài xưa còn có đến 8 nước hoặc 10 nước và cách đây không lâu lắm người ta còn thử chơi bài Bridge với 5 màu.
Thú chơi bài từng được đón tiếp nồng nhiệt ở Venise, rồi Tây Ban Nha. Chưa đầy 100 năm sau ở Paris, đã phát sinh ngành công nghiệp sản xuất bài nhằm thỏa mãn đam mê của Vua Pháp Charles VI (1368-1422). Giới vua chúa trong triều đình Pháp thích chơi bài này đến nỗi có một sắc lệnh ban bố cấm giới dân đen không fược chơi.
Đến năm 1480, người Anh bị mê hoặc bởi bộ bài 52 lá. Quốc Hội Anh thấy cần phải nhanh chóng ra lệnh cấm những người hầu và học việc không được chơi bài vào kỳ nghỉ lễ Noel. Đến thế kỷ 16 và 17, bộ bài 52 lá trở nên thông dụng trong tất cả các tầng lớp dân chúng ở Anh. Những người thuộc Hoàng Gia khi ấy, chơi bài suốt nhiều ngày liền với số tiền đặt rất lớn.
Lúc đầu 4 nước bài có dạng là TIM, CHUÔNG, LÁ và QUẢ SỒI, đến thế kỷ 14 người ta thay thế bằng hình ảnh, TIỀN, CỐC, KIẾM và GẬY. Bốn nước bài này được giữ suốt trong 200 năm và chúng mang đặc tính của thời phong kiến. TIỀN tượng trưng cho giới thương nhân, CỐC cho Nhà Thờ, KIẾM cho giới quân sự và GẬY là cho tầng lớp lao động. Tương tự ba quân bài cao nhất: quân Già tượng trưng cho vua, quân Đầm tượng trưng cho Hoàng Hậu và quân Bồi tượng trưng cho người hầu. Mãi sau này bốn nước bài mới được đổi thành: TIM, CƠ, CÁNH CHUỒN, NGỌN GIÁO (mà ta vẫn quen gọi là CƠ, RÔ, CHUỒN (NHÉP), BÍCH do bắt chước lối phát âm). Tuy vậy, có điều khá lạ là nước Bích không tượng trưng cho giai cấp nông dân hoặc công nhân tức những người nghèo khổ. Có lẽ người ta chọn nước Bích vào thời kỳ mà việc sử dụng Giáo Mác khá phổ biến.
Thuở ban đầu, CƠ (trái tim) có nghĩa là tâm hồn cao thượng, sự thanh cao; RÔ (ca rô) có nghĩa là sự giàu có, quyền lực của giới thương nhân (Rô hình thoi làm người ta nhớ đến các viên ngói lợp trên các ngôi nhà mà giới thương nhân đến bàn bạc chuyện làm ăn); CHUỒN được xem là tượng trưng cho giới nông dân nhưng thực sự nó chỉ đơn giản thể hiện hình một chiếc lá cánh chuồn.
Mỗi quân bài BỒI, ĐẦM, GIÀ tượng trưng cho một nhân vật lịch sử có thật. Già Cơ chính là Hoàng Đế Charlemagne (747-814). Đầm Cơ chính là bà Judith mà theo tuyền thuyết đã giải thoát dân tộc Judeé khỏi ách bạo tàn của người Assyrien. Bồi Cơ chính là La Hire (1390-1443) người bạn đường thân tín của nữ anh hùng Joan d’Arc. Lai lịch của con đầm Bích vẫn chưa được xác định. Có người cho rằng đó có thể là một bà Hoàng Hậu nào đó của Pháp.
Trong số các truyền thuyết của bộ bài 52 lá có cả truyền thuyết về lá bài 9 Rô. Trong một thời gian dài, quân bài này đã được gọi là “tai họa của xứ Scottland”. Đã có nhiều lời giải thích về truyền thuyết trên nhưng mọi chuyện vẫn chưa được tỏ rõ lắm. Có giả thiết cho rằng chính trên lá bài 9 Rô, công tước Cumberland (1721-1765) đã viết lệnh tàn sát các tù binh bị thương sau trận Culloden (1746). Một lời giải thích khác nói, trong một kiểu chơi bài do bà Marie, hoàng hậu của xứ Scottland đề xướng, con 9 Rô được xem là quân bài chủ cần tìm kiếm và người dân Scottland thích chơi kiểu bài này đến nỗi nhiều gia đình phải tán gia bại sản và thế là từ đó con số 9 Rô được biết đến dưới tên “tai họa”.
Khởi đi, bộ bài 52 lá, từng được sử dụng như một thứ tiêu khiển quý phái, giờ đây thú chơi bài đã trở nên rất bình dân và đau đớn thay, nó đã bị người ta làm biến dạng để trở thành một phương tiện sát phạt, cay cú ăn thua nhau tàn nhần kinh khiếp. Bao kẻ trắng tay vì bài bạc... bao kẻ tan nát gia can vì tính “máu mê”... (Đặc biệt, chỉ có một điểm an ủi duy nhất là trong khoảng thời gian từ 1685 đến 1715, ở Canada, các quân bài được dùng làm… tiền để trao đổi)./.
Tú lơ khơ xuất hiện ở Châu Âu từ thời cực thịnh của đạo Thiên Chúa vì vậy các con số trên nó đều có ý nghĩa gắn liền với tôn giáo này.
số 2: Là 2 ước kinh Tân ước và Cựu ước.
Số 3: Ám chỉ 3 ngôi cha con và thánh thần.
Số 4: nói đến 4 vị thánh trong phúc âm (Thánh Mathieo, Jeans, Luc và Marans)
Số 5: Liên Tưởng tới 10 đồng trinh 5 tốI tăm và 5 sáng suốt.
Số 6 & 7: Chúa đã sinh ra 6 ngày làm việc (thứ 2 đến thứ 7) và 1 ngày nghỉ là chủ nhật cũng nguyên là ngày chúa nhật tức ngày của chúa.
Số 8: Ông già Noel và gia đình (8 ngườI) đã thoát chết trong trận đạI hồng thuỷ.
Số 9: Chúa Giêsu đã chữa trị cho 10 người bị bệnh huỷ nhưng chỉ có 1 người quay lại cảm ơn còn 9 người kia thì không.
Số 10: chỉ 10 dòng đạo thiên chúa.
J: Chỉ lớp quân đội.
Q: Là Maria mẹ chúa Giêsu.
K: Là vua, ý nói mỗi nước có 1 vị vua. /.
Đó là một cỗ bài gồm 52 quân theo các quy ước khác nhau về giá trị. Thứ bài này chúng ta thường gọi là tú lơ khơ, nhiều khi còn nói gọn là tú: đánh tú, chơi tú (hiện nay người còn sáng tạo ra nhiều trò giải trí rất hấp dẫn dựa trên cỗ bài này, đánh chắn, chơi tá lả chẳng hạn).
Vào đầu thế kỷ 20, dân ta hay gọi là bài tây. Lý do là trò chơi này được du nhập từ phương Tây, giống như các loại vật dụng, hàng hoá khác, như khoai tây, dầu tây, quần áo tây, bánh tây (bánh mì),... đều do "người Tây" mang sang cả.
Một số kẻ cờ gian bạc lận hay dùng bài tây để lừa bịp những người nhẹ dạ. Vì vậy dân gian ta trước đây có câu "liến thoắng như bọn bài tây". Dần dần, tên gọi "ích xì" thay cho tên gọi "bài tây". Đó là tiếng biến âm của từ Pháp AS (quân át chủ trong cỗ bài cũng do từ "as" này mà ra).
Từ này lại bắt nguồn từ tiếng Latin, vốn là tên gọi của đơn vị tiền tệ của người La Mã cổ. Nhưng từ đâu mà có từ tú lơ khơ? Đây hoàn toàn không phải là phiên âm cách đọc nguyên gốc của một từ ngoại quốc nào, chẳng hạn như tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Theo lời cố GS Nguyễn Kim Thản, thì từ năm 1950-1951 trở đi, từ tú lơ khơ mới bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, thoạt tiên là ở khu căn cứ Việt Bắc, rồi lan dần ra khắp miền Bắc nước ta và cứ thế truyền rộng ra cả nước.
Tên gọi này do sự tiếp xúc của chiến sĩ, cán bộ, nhân dân ta với các chiến sĩ Giải phóng quân Trung Quốc và hạt nhân của họ là Bát Lộ Quân (thành lập tại Diên An thời chiến tranh chống Nhật).
Lúc đó, các chiến sĩ và sĩ quan Liên Xô sang làm việc tại Diên An thời ấy, khi chơi ích xì, đến những phút chót quyết định sự được thua của mỗi ván, lúc lật quân bài quật xuống chiếu, họ thường hay chế nhạo và đùa nhau bằng câu nói "Vot, durak!" (tiếng Nga: Xem này, thằng ngốc!).
Nói mãi thành quen tai, như một phản xạ ăn vào tiềm thức, các chiến sĩ Bát Lộ Quân liền tiện mồm gọi thứ bài này là bài "tu-la-khơ", do phiên trại âm từ "durak", thay cho từ "phu-khơ" (phiên từ tiếng Anh: poker) dùng khá rộng rãi ở vùng ngoài căn cứ địa (Tiếng Hán phổ thông không có các âm vị /d/ và /r/; khi phiên âm, người ta thay thế chúng bằng /t/ và /l/, như phiên đồ rê mi thành tồ lê mi, do đó mà durak = đu ra khơ thành tu la khơ).
Rồi tên gọi ấy truyền đến cán bộ và chiến sĩ Việt Nam trong hoàn cảnh đã nói ở trên, và nó tiếp tục bị đọc trại âm một lần nữa thành "tu lơ khơ", hoặc "tú lơ khơ".
Thế còn các tên gọi (mà ta thường nói là chất bài), là rô, cơ, nhép, pích có xuất xứ và ý nghĩa gì? Hẳn là chúng phải bắt nguồn từ một nguyên cớ nào chứ? Vì ta nhập "bài tây" từ nước Pháp, cho nên cũng dễ
P/s:Bài Tây ngòai việc dùng để chơi ra.Còn có 1 số lọai bài được thiết kế đặc biệt lá bài dày hơn dùng để biểu diễn ảo thuật.Hoặc dùng để bói bài