PDA

View Full Version : Những điều chưa biết về Vanga


duyniceboy
01-29-2010, 02:45 PM
Dạo trước duy có thấy 2 topic nói về vanga của anna và nhanvatso1.Thật ra từ lâu duy biết hơi bị nhiều về người tiên tri này.Nhưng do nội quy của 4rum không cho post 1 số thứ bí ẩn kỳ quái nên cứ lần lựa suy nghĩ mãi chưa dám post sợ bị anh thắng chém T_T

Thật ra những bí ẩn luôn làm con người ta thích thú khám phá nó.Và có những điều huyền bí vẫn không bao giờ có lời giải cho nó.Nhưng thông qua hồi kí về Vanga.Chúng ta không đào xới những gì bí ẩn của pà.Mà là để hiểu thêm về 1 người phụ nữ thừa hưởng siêu năng lực tuy nhiên lại số phận của pà lại vô cùng bất hạnh.Người phụ nữ đó vô cùng thánh thiện và nhân hậu.
__________________________________________________ ________

Trích từ blog opera và 1 số nguồn

Lê Nguyễn – Lê Xuân Sơn dịch

Hiện tượng kỳ lạ VANGA giờ đây được cả thế giới biết tới. Bạn đọc nước ta cũng đã được làm quen với nhà nữ tiên tri người Bungary nổi tiếng nảy qua một số bài dịch in trên các báo. Khả năng tiên tri kỳ lạ của Vanga bị phủ nhận hoàn toàn cho đến khi tiến sĩ khoa học Ghescghi Lôdanô tiến hành một công trình nghiên cứu về bà. Nhà khoa học này đã mô tả lại 7000 trường hợp tiên đoán của Vanga. Ghi âm lại hàng trăm buổi tiếp xúc với khách của bà ta, qua đó đã buộc cả châu Âu, cả thế giới phải hướng cái nhìn ngưỡng mộ lên khuôn mặt với đôi mắt không nhìn thấy ánh sáng của Vanga chính xác tới 80 phần trăm.

Chúng tôi giới thiệu với bạn đọc cuốn sách về Vanga do KRAXIMIRA XTÔIANKÔVA, cháu gái của Vanga viết. Tác giả kể lại tỉ mỉ cuộc đời Vanga và những khả năng kỳ lạ còn chưa giải thích của bà.

duyniceboy
01-29-2010, 02:46 PM
Chương 1: CUỘC PHỎNG VẤN SIÊU NHÂN

Chúng tôi, các cháu gái của Vanga, con của em gái và, thường đến thăm bà. Ngay từ lúc còn bé tí, những điều lạ lùng của bà đều không làm chúng tôi cảm thấy lạ, chúng tôi chỉ không hiểu tại sao bà tự nhiên tái nhợt đi, miệng thốt ra những lời khó hiểu, giọng nói bỗng to lên một cách không tự nhiên, thậm chí đầy đe dọa, làm chúng tôi kinh ngạc vì cái sức mạnh tiềm ẩn trong đó. Vào những lúc ấy, nếu có ai trong số hàng xóm đang ở cạnh đó thì thế nào chúng tôi cũng nghe những tiếng thì thào: “Nhỏ mồm, nhỏ mồm, bà ấy phán đấy”. Bác Vanga là nhà tiên tri?

Tôi còn nhớ ngày tôi tròn 16 tuổi. Tôi nhớ bởi vì sau bữa ăn khiêm tốn trong căn nhànhỏ ở Petretrơ, Vanga bỗng hướng về phía tôi và nói – và đó không phải là giọng của bác, mà một giọng ai đó hoàn toàn khác. Những lời nói ấy chẳng liên quan đến những gì xảy ra quanh bàn ăn cả và thực chất chẳng về cái gì cả. Tôi vẫn nhớ rõ lời bác phán: “Cháu lúc nào cũng trong tầm nhìn của ta”. Rồi sau đó bác kể lại rành rọt từng việc tôi làm trong ngày. Tại sao bác lại biết chi tiết như vậy? Tôi sững người. Sau đó, tôi hỏi bác kể những chuyện đó làm gì. Vanga ngạc nhiên, bác có kể gì đâu? Nhưng khi tôi nhắc lại mọi chuyện, bác nói nhỏ: “Không phải bác mà là những người khác, những người luôn luôn ở cạnh bác”. Bác gọi một số trong họ là “sức bé”. Chính họ đã qua bác mà kể lại một ngày của cháu, và còn có những “sức lớn” nữa. Khi họ bắt đầu nói qua bác, bác mất rất nhiều sức, bác trở nên yếu hẳn. “Con ơi. Con có muồn trông thấy họ không?” Tôi kinh hoàng trước những điều vừa nghe, đến nỗi hét lên: “Không! Không đời nào!”. Sau đó hoàn hồn lại, tôi hỏi Vanga: “Chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ là những chấm sáng trong không gian mà thôi, họ giống như những con đom đóm”.

Sau này, khi lớn khôn, tôi cố tự tìm cách giải thích tất cả những gì nghe được từ Vanga. Tôi ghi lại những câu hỏi của mình và những câu trả lời của bác. Chỉ có điều, giống như tất cả những người tập trung cho chiều sâu của cuộc sống nội tâm. Vanga rất ít lời. Bởi vậy hầu như câu trả lời bao giờ cũng ngắn gọn.

Hỏi: Bác ơi, bác có thấy gương mặt cụ thể của những người mà bác tiếp xúc không, bác có hình dung được bức tranh chung không?

Trả lời: Có, bác thấy rõ.

Hỏi: khi xảy ra một việc nào đó – trong hiện tại, trong quá khứ hoặc trong tương lai thì nó có ý nghĩa nào đối với bác không?

Trả lời: những điều vớ vẩn ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với bác cả. Bác không biết loại “máy thời gian” là gì nhưng cả quá khứ hay tương lai đều vẽ ra trước mắt bác rõ rệt như nhau.

Hỏi: Những gì bác thấy là những thông tin về con người hay là chính con người đó ạ?

Trả lời: Cả thông tin về con người lẫn chính bản thân người đó.

Hỏi: mỗi con người có “mã số”, “mật mã” riêng, mà nếu biết được thì có thể đoán được “đường đời” của người đó, tức số phận của anh ta hay không?

Không trả lời.

Hỏi: tương lai của một người nào đó hiện lên như thế nào – chỉ những sự kiện chính, hay toàn bộ cuộc đời cứ tuần tự diễn ra trong mắt bác? Tóm lại là có giống như một cuộn phim hay không?

Trả lời: Bác nhìn thấy cả cuộc đời của một người giống như một cuộn phim.

Hỏi: Bác có đọc được ý nghĩ không?

Trả lời: Có.

Hỏi: Ngay khi ở xa?

Trả lời: Khoảng cách chẳng có ý nghĩa gì cả.

Hỏi: Bác có đọc được ý nghĩ của những người nói các thứ tiếng khác mà không biết tiếng Bungari hay không?

Trả lời: Không có trở ngại nào trong ngôn ngữ cả. Khi bác nghe thấy giọng nói thì bao giờ đó cũng là tiếng Bungari.

Hỏi: Bác có “gọi” được những thông tin bác cần biết trong bất kỳ thời điểm nào không?

Trả lời: Được.

Hỏi: Sức mạnh tiên tri của bác có phụ thuộc vào tính nghiêm túc của câu hỏi đặt ra hoặc vào sức mạnh tư cách của người đối thoại với bác không?

Trả lời: Có, điều đó là quan trọng.

Hỏi: Vậy nó có phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe không chỉ của bác mà cả trạng thái thần kinh của người đến hỏi hay không?

Trả lời: Không, không phụ thuộc.

Hỏi: Nếu bác thấy tai họa sắp đến với một người, hoặc thậm chí thấy người đó sắp chết thì bác có thể làm một cái gì đó để tránh tai họa hay không?

Trả lời: Không, chẳng ai có thể giúp gì được, kể cả bác.

Hỏi: Số phận một người có phụ thuộc vào sức mạnh nội tâm và các khả năng sinh lý không? Có thể tác động tới số phận hay không?

Trả lời: Không thể được. Mỗi con người phải đi đúng con đường riêng của mình.

Hỏi: Làm thế nào bác xác định được người đến với bác đang phiền muộn điều gì?

Trả lời: Bác nghe có tiếng nói thông báo về người đó, trước mắt bác hiện lên hình ảnh của người đó, và nguyên nhân của nỗi ưu tư trở nên rõ ràng.

Hỏi: Thế bác có cảm giác là khả năng của bác được định từ trên không?

Trả lời: Có. Được định bởi những sức mạnh tối cao.

Hỏi: Những sức mạnh đó là gì?

Không trả lời.

Hỏi: Thế tín hiệu từ những sức mạnh tối cao đó thường ở hình thức gì?

Trả lời: Thường là giọng nói.

Hỏi: Thế bác có nhìn thấy những cái mà bác gọi là sức mạnh tối cao hay không?

Trả lời: Có. Cũng rõ như con người nhìn thấy bóng của mình trong nước.

Hỏi:Chúng hình thành từ những đốm sáng trong không khí?

Trả lời: Đúng như vậy đấy.

Hỏi: Những sức mạnh đó có vật chất hóa được không, mang hình dạng con người chẳng hạn?

Trả lời: Không, không thể.

Nếu bác muốn liên lạc với họ, thì bác làm bất kỳ lúc nào được không? Hay họ mới là bên chủ động?

Trả lời: Thường thì mối liên hệ do họ chủ động. Nhưng bác có thể gọi được. Họ ở khắp nơi.

Hỏi: Người chết mà người ta thường hỏi bác hiện lên trên trước mắt bác như thế nào? Đó là một hình ảnh xác định hay là một cái gì khác?

Trả lời:Hiện ra thấy được của người chết và nghe được tiếng nói của người đó.

Hỏi: Như thế những người chết có thể trả lời các câu hỏi.

Trả lời: Người đó có thể đặt câu hỏi cũng như câu trã lời các câu hỏi được đặt ra.

Hỏi: Nhân cách con người có tồn tại sau cái chết thể xác của anh ta hay không?

Trả lời: Có.

Hỏi: Nghĩa là bác coi cái chết của con người chỉ là sự ngừng tồn tại của thể xác anh ta?

Trả lời: Đúng thế. Chỉ là cái chết của thể xác.

Hỏi: Con người có” tái sinh” sau cái chết thể xác hay không?

Vanga không trả lời.

Hỏi: Có tồn tại một loại trí tuệ khác hoào hảo và cao hơn trí tuệ con người không?

Trả lời: Có.

Hỏi: thế cáo siêu trí tuệ đó có nguồn gốc từ đâu? Nó thấm nhuần chỉ khoảng không cận Trái đất hay toàn bộ Vũ trụ? Nó đến với chúng ta từ những nền văn minh trong quá khứ bị tuyệt diệt hay từ tương lai? Nó từ đâu tới và đang ở đâu?

Trả lời: trí tuệ khởi đầu và kết thúc trong Vũ trụ. Nó vĩnh cửu và vô hạn. Nó là toàn năng.

Hỏi: Trên Trái đất, đã từng có những nền văn minh lớn, tổ chức cao?

Trả lời: Đúng.

Hỏi: Có bao nhiêu nền văn minh tất cả, và chúng kết thúc khi nào?

Không trả lời

Hỏi: Trong vũ trụ có nền văn minh nào đặt ngang trình độ phát triển với văn minh Trái đất?

Trả lời: Có.

Hỏi: Có đúng là có những con tàu vũ trụ có người ngoài hành tinh khác, được gọi một cách thô thiển là “dĩa bay” đến thăm Trái đất hay không?

Trả lời: Đúng, có.

Hỏi: Chúng bay từ đâu tới?

Trả lời: Từ hành tinh mà những người dân trên đó gọi là – Vaphim. Ít ra là bác nghe tên nó là như vậy. Đó là hành tinh thứ tư kể từ trái đất.

Hỏi: Nếu người Trái đất muốn thì có thể giao tiếp với cư dân của hành tinh bí hiểm đó được không? Bằng các phương tiện kỹ thuật hay bằng thần giao cách cảm?

Trả lời: Người trái đất bất lực. Sự giao tiếp là do họ chủ động, tùy theo ý muốn của họ.

Tôi cho rằng cái đặc biệt nhất trong khả năng Siêu nhiên có thể là tự nhiên của Vanga là sự dễ dàng dịch chuyển trong không gian và thời gian của trí não bà: từ quá khứ xa xăm đến tương lai xa tít tắp.

… Cạnh làng Prepetrere nằm giữa hai thành phố Xandanxki và Petriti có thung lũng Rupite nổi tiếng ở Bungari nhờ những nguồn nước khoáng của mình. Án ngữ phía Tây của nó là một ngọn núi lớn được bao phủ bằng những bụi cây rậm rạp như tấm lông cừu gọi là núi Kojiuc. Ngày trước, dưới chân dãy núi này có một con sông sâu tên là sông St.ruma, giờ đây dòng của nó chỉ có nước khi có những trận mưa lớn đổ xuống gây ngập lụt. Còn thường thì lòng sông cạn khô và các dải cát trong đó ánh lên dưới ánh mặt trời. Ở đó có một ngôi nhà nhỏ của Vanga, nơi bà sống những nơi tĩnh lặng.

duyniceboy
01-29-2010, 02:49 PM
CHƯƠNG 2


Ngôi nhà của Vanga ở Petriơ thu hút rất nhiều khách. Điều gì đã dẫn họ tới đây? Một số người muốn nhờ người đàn bà thông tuệ chỉ giùm phương thuốc chữa chứng bệnh nan y, một số người khác nữa thì đến vì tò mò muốn tận mắt nhìn thấy Vanga… hàng ngày có lẽ đến hàng trăm người đến ngôi nhà ở Petritrơ…

Người dân Petritrơ đã quen từ lâu với việc quanh nhà Vanga luôn luôn có một đám mây vây quanh và họ không để ý đến những người này nữa. Người dân ở đây đã quen với cả Vanga lẫn những người khác của bà. Một nhà văn nổi tiếng, hình như là Đôxtôiepxki nói rằng con người là sinh vật có thể quen với mọi thứ. Vậy nên nếu bạn hỏi người dân Petritrơ. Vanga nổi tiếng của họ là ai: một nhà tiên tri hay một bà lang, thì chúng ta thường được nghe một câu trả lời bình thường: đó là một người đồng hương, hàng xóm của chúng tôi. Chỉ có thế thôi. Vanga sinh ngày 31 tháng 1 năm 1911 tại thành phố Xtrumitse ở Nam Tư trong một gia đình tiểu chủ. Bà thừa kế của người cha lực điền một sự dẻo dai đặc biệt trong công việc chân tay. Ngoài ra còn có cả các phẩm chất khác nữa như sự trung thực, yêu thích chính nghĩa, ghét sự lừa dối. Mẹ bà để lại cho bà bản tính vui vẻ, thích sạch sẽ.

Vanga bị đẻ non, lúc mới bảy tháng nên rất yếu, tai còn áp chặt vào đầu, các ngón tay ngón chân gần như cứ dính nhau. Chẳng ai dám nói là cô bé sẽ sống được. Người ta quấn tã cho bé rồi lại cuộn thêm một tấm da lông ấm áp. Do ở vùng đó có phong tục chưa vội đặt tên cho đứa bé nếu nó ít có hy vọng sống nên cô bé không có tên trong một thời gian. Phong tục đặt tên cũng rất đặc sắc. Thông thường bà của đứa trẻ ra đường và đề nghị người đàn bà gặp đầu tiên nói lên một cái tên. Bà của cô bé yếu ớt cũng làm như vậy. Người đàn bà được hỏi nói: “Hãy gọi nó là Anđrômakha”.

Hồi đó ở Xtrumitse nhiều người có tên Hy Lạp như vậy, nhưng người bà không thích cái tên quá kêu. Bà tiếp tục đứng cạnh cửa và đợi người đàn bà tiếp theo đi qua. Người ấy nói: “Đặt cho đứa bé tên gì ấy à? Chẳng cái tên nào nghe đẹp hơn là Vangelia nữ thần báo điềm lành. Một cái tên Hy Lạp tuyệt vời. Cứ đặt cho cháu gái của bà cái tên Vangelia”.

Thế là cô bé có tên – Vangelia, Vanga…Liệu cha mẹ cô bé lúc đó có biết ai đang trong tấm da cừu không nhỉ? Chắc không.

Panđe Xurơtrep, cha của Vanga coi việc cày cuốc là sứ mạng của mình. Nhưng tai họa là ở chỗ người nông dân ít được hưởng cái hạnh phúc, đơn giản là chăm sóc lúa mì trên cánh đồng yên tĩnh của mình. Hôm nay họ làm việc, ngày mai đã ra chiến địa. Đã bao thế kỷ như thế rồi – Panđe cũng đi du kích chiến đấu chống quân xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ. Ông không gặp may nơi chiến trận, trong một trận đánh, ông bị bắt và bị kết án tù chung thân trong nhà giam. “Ieđi Kule”. Nhờ có cuộc cách mạng ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1908 mà Panđe và những người bạn của ông mới thấy lại tự do và trở về nhà.
Nhưng những người thân của Panđe đều đã chết. Cha mẹ ông mất khi ông còn ngối trong nhà tù “Ieđi Kule”, một người em trai không rõ biến đi đâu. Làm gì đây? Ông nghe nói ở Xtrumitse người ta đang chia đất và nhà do quân Thổ bỏ lại. Ông quyết định lập nghiệp ở đó.
Người ta cho ông một căn phòng trong một ngôi nhà cũ kỹ nằm ở rìa thành phố. Nhà tồi tàn, đất đai xấu. Nhưng hương vị ngọt ngào của tự do làm say sưa những người dân ở đó. Nghèo mà vui – đó là tâm trạng của họ.

Panđe sống hòa thuận với những người hàng xóm của mình. Ông ở độc thân một thời gian rồi gặp được một cô gái dễ thương, thanh mảnh như cây sậy, khéo tay vàvui tính là Paraxkeva. Họ cưới nhau và sống rất hạnh phúc. Và năm 1911, Vangelia qua đời.

Vanga cứng cáp dần lên. Nhưng tai họa lại ập đến. Ba năm sau, Paraxkeva chết trong lần sinh nở thứ hai. Panđe đau khổ tuyệt vọng. Lại còn thêm cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Panđe bị động viên vào quân đội Bungari. Vanga được một người hàng xóm tốt bụng tên là Axanisa đón nuôi. Ba năm chiến tranh, cha của Vanga bặt tin. Hàng xóm cho rằng Vanga giờ đây hoàn toàn trơ trọi trên đời, nhưng vào một ngày tuyệt đẹp, Panđe trở về nhà, gầy kinh khủng, chỉ còn xương với da nhưng hoàn toàn lành lặn.

Hai cha con lại tiếp tục sống trong căn phòng xưa. Nhưng thời buổi khó khăn đã đến. Lúc đó Vanga đã bảy tuổi. Panđe hiểu rằng cô bé thiếu bàn tay săn sóc dịu dàng của người mẹ. Cần phải tìm cho nó một người mẹ. Nhưng ai mà chịu lấy một người đàn ông nghèo lại còn đèo bòng thêm một đứa bé?

Đến cuối đại chiến. Chính quyền ở Xtrumitse chuyển sang tay người Xecbi. Nhiều binh lính và sĩ quan Bungari giải ngũ về buộc phải từ bỏ quê hương. Cả Panđe cũng muốn đi vì giờ đây dân phố buộc phải nói và viết bằng tiếng Xécbi. Nhưng đi đâu được với đứa con bé bỏng? Panđe đành ở lại.

Cuối cùng Panđe cũng lấy được vợ. Hồi đó, chính quyền Xécbi ra một mệnh lệnh mang dáng dấp của thời Trung Cổ: tất cả phụ nữ có quan hệ với binh lính và sĩ quan Bungari phải rời khỏi Xtrumitse cùng với toàn thể gia đình. Một trong những cô gái xinh đẹp nhất thành phố tên là Tanke – người yêu của một sĩ quan Bungariđã bị bố mẹ cho Panđe để tránh việc gia đình bị đuổi khỏi Xtrumiste một cách nhục nhã. Tanka cảm thấy vô cùng bất hạnh mặc dù Panđe là một người chồng tốt và hay lam hay làm. Nhưng người ta có câu: mãi cùng thành yêu. Trường hợp này cũng vậy: Panđa yêu vợ và Tanka cũng trở thành nữ chủ gia biết chăm lo và là người mẹ dịu dàng đối với Vanga.

Những ngày hạnh phúc bắt đầu. Panđe chăm chỉ lao động và đất đai của ông dần lên tới 10 hécta. Vào mùa, ông đã phải thuê thêm người làm. Người ta bắt đầu gọi ông là ngài Panđa.

Nhưng ngày vui ngắn ngủi chẳng tày gang. Giông tố lại nổi lên, chính quyền Xácbi đặt mục đích biến càng nhiều dân thành người Xácbi càng tốt. Những người dân Bungari trở thành đối tượng bị khủng bố. Panđe bị bắt, đất đai của họ bị tịch thu. Gia đình bị bần cùng hóa.

Khi Panđe ra tù trong tình trạng bbị đánh đập dã man thì vợ ông đang quằn quại trong cơn đau lúc sinh nở. Đức con trai sinh ra được đặt tên là Vaxin. Đó là năm 1922, Panđe đi chăn cừu cho dân mấy làng xung quanh. Người chăn cừu và tá điền, những kẻ bần cùng trong xã hội. Panđe sống như thế cho đến cu%E1??c đời.

… Năm 1923, gia đình Panđe chuyển sang làm chỗ người anh trai của Panđe tên là Koxtađina. Ông này giàu có, cưới được vợ giàu nhưng vẫn không có hạnh phúc vì không có con. Biết em trai gặp chuyện khó khăn, ông gợi cả gia đình em đến ở với mình để cùng làm ăn.

Bắt đầu một cuộc sống mới. Là đứa bé lớn nhất, Vanga, lúc đó 12 tuổi, có nhiệm vụ hàng ngày lùa ừu ra bãi rồi chở từ đó hai thùng sữa về nhà.

Vào một ngày hè Vanga cùng hai cô bé khác trở về làng, rẽ xuống một con suối để uống nước. Tự nhiên một trận cuồng phong nổi lên. Trời tối sầm lại, cơn gió khủng khiếp bẻ gẫy cả cành lớn cuốn chúng đi cùng bụi đất. Các cô bé khiếp đảm bị gió quật ngã, riêng Vanga thì bị bốc bay trên cánh đồng. Trận cuồng phong kép dài trong bao lâu, chẳng ai biết cả. Khi gió lặng, hai cô bé vừa khóc vừa chạy về nhà. Một tiếng đồng hồ sau người ta mới tìm thấy Vanga bị cành cây và cát bụi vùi kín. Cô bé gần phát điên vì sợ và vì đau, đôi mắt đầy bụi như bị kim châm không tài nào mở ra được nữa.

Cha mẹ cố gắng chữa cho Vanga, nhưng vô hiệu. Họ nhờ đến các thầy lang nhưng chẳng còn hy vọng. Mắt của Vanga bầm máu, mí mắt sưng húp. Biết những thầy thuốc địa phương không thể giúp gì được, cha của Vanga đưa con trở lại thành phố Xtrumiste để tìm một bác sĩ giỏi. Ông bị cắn đứt bởi ý nghĩ là việc ông chuyển đến làng mới đã làm Vanga bị mù mắt.

Một bác sĩ nhãn khoa đã khám cho Vanga và nói rằng tình trạng đôi mắt rất xấu và quá trình viêm nhiễm đang tiến triễn rất nặng nề, cần phải có nhiều tiền, và phải đi Bangrát. Gia đình đã làm mọi cách để có được 500 lêva. Hầu như tất cả đồ đạc đều bị bán. Panđe vay thêm một ít tiền, tổng cộng tất cả được hừng nửas ố tiền cần có, mà thời gian mổ đã đến gần.

Hôm trước ngày hẹn mổ, Vanga được gửi đi cùng với một người hàng xóm tương đối giàu có đi thăm con trai. Panđa đàng phải bấm bụng ngồi ở nhà để khỏi tiêu lạm vào số tiền dành cho việc chữa bệng con gái.

Bác sĩ Xavich mổ cho Vanga nổi giận trước số tiền ít ỏi mà người ta đưa cho ông. Ông tuyên bố: “chỉ khi nào mang đủ số tiền đến tôi mới mổ”. Nhưng rồi ông ta cũng chạy chữa cho cô bé.

Trở về từ Bengrát, Vanga nhìn thấy mờ mờ. Bác sĩ dặn trước là để giữ được thị mực, Vanga cần được ăn tốt, giữ vệ sinh và yean tĩnh. Dĩ nhiên lời dặn dò này không thể nào thực hiện được. Năm 1924, gia đình Penđa có thêm một con trai là Tome, Panđe lang thang làm thuê kiếm tiền nuôi vợ con, Tanka làm việc đến kiệt lực ngoài đồng còn Vanga lo việc nhà và trông hai em trai.

Sự thiếu thốn , điều kiện sống lao khổ đã xóa sạch kết quả của sự chữa bệnh không mấy nhiệt tâm, ít lâu sau, Vanga mù hoàn toàn và lần này là vĩnh viễn.

Vanga tuyệt vọng, cô bé khóc ròng suốt mấy ngày đêm và cầu nguyện chúa Trời, nhưng chẳng có phép màu đến cả. Nhiều tháng sau, Vanga vẫn không tài nào quen được với việc mình trở thành gánh nặng cho cả gia đình. Những người quen ái ngại cho tình cảnh của họ đã khuyên Panđe tìm một trại người mù để gửi Vanga. Người cha bất hạnh cũng thấy cần phải như vậy.

Năm 1926, một trại mù báo tin họ sẵn sàng nhận Vanga. Năm đó Vanga 15 tuổi.

Trong trại người mù ở thành phố Demun, tất cả đều mới mẻ và tuy có hơi đáng ngại một tý nhưng thú vị.

Những trẻ em đến đây lập tức được moặc bộ quần áo học sinh rất nghiêm nghị. Váy nâu và áo sơ mi cổ lính thủy. Lần đầu tiên trong đời, mái tóc sẫm của Vanga được tỉa ngắn đi. Cô thẹn thùng nhưng cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Cô rụt rè lướt tay trên làn vải mới, và cảm thấy mình như một nàng công chúa vì cô chưa bao giờ được ăn mặc đẹp như vậy.

Chế độ trong trại rất nghiêm túc. Trước giờ ăn trưa, học sinh được học chữ nổi Lui Brain giành cho người mù, học các môn văn hóa và học nhạc. Vanga rất có năng khiếu âm nhạc nên chẳng bao lâu đã chơi được dương cầm.

Sau đó là những giờ học thực hành. Những trẻ em mù này được học cách đăt các đồ vật theo đúng vị trí của chúng, bày bàn ăn, dọn dẹp nhà cửa. Đó là những việc đơn giản đối với người sáng mắt, còn những người mù cần phải học “nhìn” bằng tay, phát triển sự nhạy cảm và độ mềm dẻo của các ngón tay. Vanga học mọi thứ dễ dàng. Các thầy cô giáo luôn hài lòng về cô.

Ba năm trôi qua như một cái chớp mắt. Từ một đứa trẻ gầy gò, Vanga trở thành một cô gái thanh tú, gương mặt gầy của cô tỏa ra sự yên tĩnh và hài lòng. Thỉnh thoảng gương mặt đó cũng bừng lên một niềm vui thầm kín nào đó. Trong số học sinh củ trại có chàng trai trẻ tên là Đimitơ. Vừa nghe giọng nói của anh, Vanga đã đỏ mặt sung sướng, trái tim cô đập rộn ràng vừa lo âu, vừa sung sướng trong lồng ngực. Chàng trai cũng phân biệt giọng nói của Vanga. Cả hai người đều cảm thấy hạnh phúc khi họ ở bên nhau. Đến một hôm, Đimitơ ngỏ lời yêu với Vanga. Bố mẹ Đimitơ giàu có họ cũng tán thành tình cảm của đôi trẻ.

Hàng ngày ròng rã Vanga cố hình dung mình trong vai cô dâu. Chiếc áo trắng và vòng hoa tinh khiết. Cô lặng đi vì hạnh phúc. Lãnh đạo trại đã gửi thư thông báo cho Panđe biết về quyết định của Vanga và Đimitơ và mọi người đợi lời chúc phúc của ông.

duyniceboy
01-29-2010, 02:51 PM
CHƯƠNG 3

Năm 1928 thật là một năm khủng khiếp! Thay vì lời chúc phước của cha, Vanga nhận được từ Xtrumitse bức thư làm cô tan nát cõi lòng. Cha cô viết rằng cô phải lập tức quay về nhà để trông nom các em. Hai năm trước, mẹ kế cô sinh thêm một em gái và vừa qua đã mất khi sinh nở đứa con thứ tư.

Thế là Vanga đã phải vĩnh biệt mối tình đầu, vĩnh biệt trường học và cuộc sống ít nhiều hạnh phúc. Đường trở về nhà là thật buồn thảm. Cô biết rằng ba năm ở trại người mù là những năm tháng đẹp nhất trong đời cô.

Từ đó trở đi cuộc đời Vanga là một chuỗi dài những đau khổ mà không phải những người sáng mắt cũng chịu đựng nổi. Thật lạ lùng: Vanga đã vững vàng, như có sức mạnh tiềm ần trong tâm hồn đã giúp cô vượt qua mọi khó khăn.

Vanga trở về trong tình cảnh bần cùng của gia đình. Mấy đứa trẻ bẩn thỉu và luôn đau ốm vì đói ăn. Em trai Vaxin 6 tuổi. Tôme 4 tuổi, còn em gái út Liupka mới 2 tuổi. Và cô gái mù có sứ mệnh giúp phải là tất cả đối với chúng: là mẹ, là chị, là người chăm sóc, bảo vệ. Vanga vừa trở về là Panđe đã phải đi làm thuê để kiếm tiền nuôi các con.

Trớ trêu là cuộc đời hay thử thách, trước hết là những người nghèo. Trận động đất năm 1929 ảnh hưởng đến cả vùng Xtrumitse. Ngôi nhà mà gia đình Vanga sống sụp đổ. Cha cô thu nhặt các mảnh vụn dựng nên một căn lều vách đất và một gian bếp nhỏ để có thể nướng bánh mì khi gia đình có bột. Vanga cố gắng thu xếp căn lếu gọn gàng và ấm cúng. Cô cùng Liupka sống những năm dài trong căn lều này. Các em trai của Vanga mặc dù còn bé nhưng cũng lang thang suốt ở các làng mạc để làm thuê hoặc chăn cừu thuê kiếm miếng ăn cho gia đình.

Những người chung quanh dần dần nghe nói rằng cô gái mù biết đan đẹp và nhanh. Họ mang len đến thuê cô đan. Họ trả công bằng các đồ vật nhỏ hoặc cuộn len cũ. Từ giẻ thừa, vải cũ, Vanga may quần áo cho các em. Cô hầu như chẳng bao giờ ra khỏi nhà. Ai cũng biết cái nghèo khủng khiếp của họ. Trong vùng, hễ có người đàn bà nào chết, người ta lại cho Vanga quần áo của người đó. Buổi sáng, Vanga dậy rất sớm. Công việc nhà cửa rất ngiều, Vanga không thích rỗi rãi chân tay và cũng không cho phép ai được ăn không ngồi rồi. Liupka mặc dù còn bé nhưng biết may vá. Vanga dạy cô bé làm các công việc gia đình khác và tỏ ra là một cô giáo nghiêm khắc.

Ở Xtrumitse có một phong tục thú vị: Buổi tối trước ngày lễ thánh Gheocghi (ngày 6 tháng 5), các cô gái bỏ vào cái vỏ sành đựng rượu một vật đánh dấu đặc biệt thì ngày hôm sau nhìn vào đó có thể đoán được hạnh phúc của mình. Các cô gái hàng xóm thường đặt vò trong sân nhà Vanga dưới một khóm hoa hồng già. Có thể là sự thông cảm với cô gái mù, họ thường chọn Vanga làm người đoán cho họ. Sáng hôm sau, Vanga lấy các vật làm dấu ra và “kể” cho các cô gái số phận của họ. Những lời tiên đoán của Vanga hay nghiệm nhưng lúc đó chẳng ai nghĩ Vanga sẽ có tài tiên tri.

Có một ngày lễ nữa là ngày 40 vị Thánh tử vì đạo, các cô gái cũng bói: họ đặt những cành cây bắt ngang con suối làm cầu và tin rằng đến đêm sẽ nhìn thấy người chồng tương lai trong giấc mơ đang đi qua cây cầu của mình. Buổi sáng, các cô gái đến gặp Vanga để nghe cô kể lại cho họ nội dung những giấc mơ của họ. Điều đó nghe rất lạ lùng nhưng chẳng ai nghĩ đến chuyện tìm lời Giải thích: cho những “phép lạ” đó cả.

Nhưng những phút vui trong gia đình Vanga rất ít. Họ thường bị đói. Lương thực thường xuyên của họ là bắp cải dại, bột ngô và nếu may thì có sữa chua.

Nếu con cái có đòi Panđe mua gì đó, ông chỉ hứa: “Khi nào bán được anh đào, bố sẽ mua”. Nhưng trong sân nhà họ chẳng có một gốc anh đào nào cả.

Mỗi mùa xuân họ trồng một vạt thuốc lá. Khi lá thuốc già, họ hái, cuộn, thái phơi khô rồi bán. Nhưng tổ hợp thuốc lá trả cho họ ít tiền đến mức họ chỉ đủ để mua một cái “vò sành mới”. Cái cũ đã nứt rạn đến mức không thể dùng được nữa.

Năm 1934, Liupka bắt đầu đi học. Liupka học giỏi. Vanga rất vui sướng vì cô cũng từng được học tập ở trại. Mấy em trai thì kiên quyết không chịu đi học. Tại Xtrumitse có một câu lạc bộ quốc tế ngữ tập hợp hầu như tất cả các trẻ em nhà nghèo. Cả Vaxin lẫn Tome đều ghi tên và đến câu lạc bộ đều đặn như đi học quốc tế ngữ. Họ thường bắt Liupka mang những gói nhỏ chuyển đến nhiều địa điểm trong thành phố. Một thời gian sau mới vỡ lẽ là ở câu lạc bộ người ta nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Hai con trai của người chiến sĩ du kích già Panđe đã tìm ra con đường của mình. Vanga tiếp tục chăm lo việc gia đình và trở thành chỗ dựa không chỉ cho các em mà cho cả ông bố. Panđe nhiều lúc tuyệt vọng trong cảnh bần cùng. Vanga lại gieo hy vọng vào ông bằng cách khẳng định rồi sẽ đến những ngày tươi sáng hơn đối với ông. Lúc nào cũng túng thiếu, có lúc Panđe mơ ước trở thành người đi tìm kho báu, tìm được thật nhiều tiền.

Một lần Vanga nói với ông rằng có một nơi có chôn rất nhiều đồng tiền cổ và mô tả tỉ mỉ nơi đó. Nó nằm cách không xa Xtrumitse, tại một làng bỏ hoang bên một cánh rừng có một mỏm đá nhọn hoắt. Vanga nói là tiền cổ được chôn dấu dưới tảng đá này. Ông bố thoạt đầu ngạc nhiên sau đó phá lên cười rất to và lâu. Vanga sầm mặt im lặng. Ông bố thôi không cười nữa và sau đó nhớ lại rằng quả thật có một nơi như thế. Đó là làng Raianna bị dân làng từ bỏ từ lâu sau trận dịch hạch. Ở đó có cả sông, cả cánh rừng, cả tảng đá.

Panđe hỏi Vanga tại sao cô lại biết chỗ đó, Vanga nói là cô thấy trong mơ. Panđe đành rủ con gái đi cùng mình đến đó biết đâu vận may đang chờ họ.

Và thế là cả nhà lên đường.

Liupka nhớ lại là Vanga định hướng nơi đó rất dễ dàng, cứ như cô từng đến đó rất nhiều lần và tất cả mọi thứ đều đúng như là cô mô tả. Panđe quyết định trở lại nơi này với cả cuốc xẻng để đào. Nhưng sau đó đã xảy ra một chuyện không may, ông bị ngã gẫy tay nên không đào được. Rồi người ta đắp đập chặn sông để xây một hồ chứa nước. Nếu quả thực ở đó có chôn tiền thì giờ số tiền cũng nằm sâu dưới đáy nước chờ đợi các thế hệ tìm kho báu tương lai.

Ít lâu sau đàn cừu mà Panđe chăn thuê bị mất trộm một con. Ông trở về nhà lòng giận dữ vì chủ không chịu trả công cho ông vì con cừu bị mất đó. Vanga nói rằng con cừu đó do một người ở làng Xonoxintovo bắt trộm. Vanga tả cảnh bề ngoài của kẻ đó. Panđe kinh ngạc bởi ngay cả ông cũng không biết người đó huống chi Vanga, một cô gái mù ít khi ra khỏi sân nhà. Nhưng Vanga nói rằng cô mơ thấy như vậy. Cô thường buồn bã nhắc lại là cô hay mơ thấy những việc không hay và sau đó chúng trở thành hiện thực. Đó chính là thời kỳ đầu của tài tiên tri của Vanga. Panđe đến làng mà Vanga chỉ ra và quả là tìm thấy con cừu bị mất trong đàn cừu của một người làng đó.

Năm 1939 Vanga bị viêm màng phổi. Tám tháng liền cô ở giữa cái sống và cái chết. Cô gầy kinh khủng khiếp và nhẹ như bấc. Vào những ngày nắng Liupka đặt chị gái vào tấm chăn và mang ra đường. Thỉnh thoảng bác sĩ cũng đến thăm nhưng chẳng thể giúp gì và một lần nữa còn nói với Liupka là chị gái cô sắp chết. Tin này nhanh chóng lan ra khắp khu phố và hàng xóm đã gọi linh mục đến làm lễ rửa tội. Vào ngày Công nhân tổ hợp thuốc lá lĩnh lương, một người cầm mũ đứng cạnh cổng đề nghị mọi người quyên góp tiền để làm lễ tang cho cô gái mù nghèo bị chết.

Nhưng hai ngày sau, khi lấy nước trở về, Liupka đã đánh rơi xô nước. Vanga mà mọi người đang chờ chết đã trở dậy và đang quét sân. Không thể nói là cô vừa ốm “thập tử nhất sinh”. Cô chỉ gầy khủng khiếp và da tái hơn thường lệ. Cử động của tay cô vẫn mạnh mẽ và đầy tự tin. Khi nghe tiếng Liupka, Vanga nói: “Chúng ta nhanh tay lên nào, cần phải quét dọn mọi nơi sắp có nhiều người đến nhà ta đấy!”.

Năm 1939 trôi qua trong bầu không khí chính trị sôi sục. Chính phủ ngày càng thân Hítle. Nhân dân phản đối, nhiều cuộc biểu tình, đình công nổ ra. Bắt đầu những cuộc bắt bớ hàng loạt. Cả cha của Vanga cũng bị bắt. Một kẻ nào đó đã vu cáo ông. Trong tù ông bị đánh đập dã man nhưng vì thiếu chứng cớ, chúng buộc phải thả ông. Bình phục một cái là ông già Panđe 53 tuổi lại bắt đầu lang thang làm thuê.

Đầu năm 1940, Liupka bị viêm màng não. Sau hai tuần nằm viện, Liupka trở về và thấy Vanga chỉ còn da với xương. Suốt thời gian Liupka bị ốm, không ai bước qua cửa nhà họ cả và dĩ nhiên chẳng có ai mang nước uống cho Vanga. Nhưng Vanga chịu đựng không một lời kêu ca và rất vui sướng khi thấy em gái lành bệnh trở về.

Hàng ngày Vanga và Liupka đi lấy nước ở những cái giếng nằm giữa cánh đồng. Trong khi Liupka kéo nước, Vanga ngồi xuống một hòn đá và ngồi im lặng, bất động hoàn toàn thoát ly thực tại. Một lần Liupka hoảng hồn tưởng chị gái mình mất trí và chết đến nơi. Cô đứng chôn chân cạnh Vanga cho đến khi chị gái hồi tỉnh lại: “Em đừng sợ”, Vanga nói chẳng có gì đáng sợ cả. Đó là do chị vừa nói chuyện với một người, một kỵ sĩ, ông ấy muốn cho ngựa uống nước. Chị nói ông ấy đừng giận khi em không chịu nhường cho ông ấy lấy nước trước, bởi em không trông thấy ông ấy mà. Người kỵ sĩ trả lời: “Tôi không giận đâu, tôi đợi được mà. Còn cô, cô hãy hái những cọng cỏ có hoa trắng nhỏ kia kìa, nó gọi là “Cỏ sao” có thề tác dụng chữa rất nhiều thứ bệnh”.

Liupka nhìn quanh và lúc đó mới để ý đến loại cỏ mọc đầy quanh giếng. Loại cỏ này thân mảnh không lá, trên ngọn có những bông hoa nhỏ màu trắng vương lên với mặt trời. Từ trước đến nay, cô chưa biết tên nó bởi chưa từng thấy nó ở một nơi nào khác. Liupka còn hoảng sợ hơn nữa khi thấy trên cánh đồng không một bóng người, Vanga nói về người kỵ sĩ nào. Chị ấy nói chuyện với ai trong khi không hề mấp máy môi.

Có lẽ số phận của họ là phải ốm trong cái năm 40 ấy. Sau các con gái đến lượt ông bố bị ốm, trên da xuất hiện các vết loét, ông bị nhiễm trùng máu. Suốt mùa hè hai chị em chăm sóc bố có những lúc đã tưởng ông khoẻ lên, nhưng Vanga nói với em: “Em đừng hy vọng làm gì, chị biết là cha sắp mất rồi. Chúng ta hoàn toàn trơi trọi trên đời, không còn ai che chở nữa”.

Đến tháng 9, Panđe đã rất yếu. Cả hai con trai đi xa đều trở về để túc trực bên giường của ông. Sau nhiều năm ly tán, rốt cuộc cả gia đình quy tụ về để mà …đói cùng nhau. Mỗi buổi sáng, hai anh em lại ra chợ làm bất kể việc gì. Họ thường trở về tay trắng. Thời buổi thật khó khăn.

Đầu tháng 11, Panđe cảm thấy mình sắp chết, ông gọi các con lại và dặn: “Các con, cha sắp chết đây. Các con hãy ở lại và sống cho đến lúc mảnh đất của chúng ta lại trở lại là đất đai Bungari. Tiếc là cha không sống được đến cái ngày tươi sáng ấy. Cha có một ước muốn lớn: “Khi người Bungari quay trở lại, hãy gọi một người lính Bungari nào đó để người đó cắm lưỡi lê vào đất trên mộ cha, cha sẽ hiểu là Bungari đã đến!”.

Ngày 8 tháng 11 năm 1940, Panđe mất, thọ 54 tuổi.

Sau này khi quân đội Bungari tiến vào Xtrumitse, hai con trai Panđe dẫn một người lính đến mộ cha. Người lính đó là Bôrít Ianép người làng Beliuset. Anh cắm lưỡi lê lên mộ và nói: “Hãy an nghỉ hỡi người Bungari trung hậu”. Như đã nói ở trên, đó là chuyện về sau.

Ngày tháng trôi đi với những nỗi cay cực đến tội cùng. Chỉ có sự chịu đựng không giới hạn của Vanga giữ cho các em cô khỏi tuyệt vọng. Mặc dù cay đắng hơn tất cả mọi người, Vanga đã tỏ ra dũng cảm và là tấm gương về sự cứng cỏi cho các em. Ít lâu sau, hai em trai lại lên đường đi làm thuê.

duyniceboy
01-29-2010, 02:52 PM
CHƯƠNG 4

Cơn bão táp vần vũ thế giới. Đâu đâu cũng nghe những lời bàn tán về cuộc chiến tranh đang đến gần. Thực phẩm biến đi khỏi các cửa hàng và chợ. Những người hàng xóm thường tụ tập trong sân nhà Vanga. Họ nói với nhau những chuyện đầy lo âu. Vanga thỉnh thoảng lại nói là cần quyên góp tiền cúng cho nhà thờ Mười lăm vị Thánh tử vì đạo. Một năm nữa chiến tranh sẽ bắt đầu. Vanga báo trước, chỉ có sự hào phóng mới cứu được thành phố khỏi phá huỷ. Những người hàng xóm tiếc tiền không muốn làm. Vanga kiên trì nhắc lại rằng cô nhìn thấy trong mơ những sự kiện đáng sợ của cuộc chiến tranh sắp tới. Nó sẽ nổ ra trong năm 1941, vào tháng tư.

Cả năm 1940 trôi đi trong sự chờ đợi lo âu. Và vào đầu năm 1941…

“Ông ta cao lớn, tóc sáng màu và đẹp thiên thần. Những giáp trụ binh khí chiến binh của ông toả sáng dưới ánh trăng. Con ngựa có túm đuôi trắng lấy móng cào cào đất. Người kỵ sĩ dừng lại trong sân, xuống ngựa rồi bước vào căn phòng tối. Ông ta toả ra một ánh hào quang làm căn nhà sáng lên như ban ngày. Quay về phía Vanga, vị khách nói bằng giọng trầm: “Mọi thứ trong thế giới sẽ bị đảo lộn, rất nhiều người sẽ chết. Nhưng cô sẽ ở lại đây và sẽ thông báo về những người sống và những người chết. Đừng sợ, ta sẽ ở ngay bên cạnh. Lúc nào ta cũng ở bên để giúp cô”.

Vanga hỏi em gái: “Liupka, em có nhìn thấy người kỵ sĩ không, ông ấy mới phi ngựa ra từ sân nhà ta”.

“Người kỵ sĩ nào? – Em gái hỏi. – Chị có biết bây giờ là mấy giờ rồi không? Có lẽ chị vừa mới ngủ mê ấy”.

“Chị không rõ, có thể là chị ngủ mơ, nhưng đó là một kỵ sĩ lạ lùng và giấc mơ cũng thật lạ lùng. Em nghe này…”

Vanga lo lắng kể lại giấc mơ cho Liupka và cả hai chị em không chợp mắt nổi cho đến sáng.

Ngày 8 tháng 4 năm 1941, đúng như Vanga đã tiên đoán một năm trước đó, quân đội Đức vượt qua biên giới Nam Tư. Buổi sáng, tất cả dân phố Xtrumitse đều đi kiếm nơi ẩn nấp. Chỉ có Vanga và Liupka là ở lại nhà.

Đến trưa thì trên đường phố đã vang lên tiếng động cơ của các loại xe hạng nặng. Xe tăng Đức tràn vào thành phố. Hai chị em nghe những tiếng la hét, tiếng gót giầy thình thịch, quân Đức đang lùng tìm cướp tài sản, súc vật và của cải. Cánh cửa bật mở tung, một tên lính Đức hiện ra trong khung cửa. Hai chị em đứng giữa nhà, tái nhợt như những xác chết. Tên lính nhìn lướt qua gian nhà và cái sân trống không rồi bỏ đi: ở đây chẳng có gì để cướp cả.

Hai ngày sau những người hàng xóm mới lục đục trở về. Nhiều người kéo đến nhà Vanga xem tình hình hai chị em ra sao. Nhưng họ khinh ngạc không dám bước vào nhà. Họ không nhận ra Vanga nữa. Sau mấy tiếng đồng hồ, Vanga đã thay đổi đến mức không còn nhận ra được nữa.

Vanga đứng ở một góc phòng và nói bằng một giọng to, mạnh và đầy tự tin. Một sự căng thẳng nội tại thể hiện trong mỗi lời nói, mỗi hành động. Đôi mắt mù vẫn trống rỗng nhưng khuôn mặt cô biến đổi, trở nên sống động đến nỗi có cảm giác dường như từ gương mặt đó có ánh sáng tỏa ra. Từ miệng Vanga phát ra lời nói của người khác, nêu đúng tên, vị trí các sự kiện sẩy ra. Vanga nói về số phận của những người dân thành phố đã bị quân Đức bắt đi, ai còn ai mất, ai sẽ trở về và về khi nào… cảnh tượng kinh ngạc đến nỗi nhiều người bỗng có ý muốn quỳ sụp xuống trước mặt Vanga mà lạy như trước vị nữ Thánh. Sau đó, những người mà Vanga tiên đoán đã trở về đúng thời hạn như cô dự đoán.

Tiếng đồn về Vanga, nữ tiên tri lan nhanh trong thành phố, người ta bắt đầu lũ lượt kéo đến nhà cô.

Sau đây là một trong những trường hợp tiên đoán đầu tiên của Vanga.

Vợ người hàng xóm Milan Nactenôp ngồi trong sân nhà Vanga và khóc bởi chồng bà bặt tin. Vanga nói với bà: “Cô đừng khóc, mà tốt hơn hết là đi giặt là quần áo và chuẩn bị bữa ăn tối cho chú ấy bởi đêm nay Milan sẽ trở về nhà. Cháu nhìn thấy chú ấy. Chú ấy đang nấp trong một cái vực cách không xa thành phố, trên người chỉ còn đồ lót thôi”.

Người đàn bà nghĩ Vanga nói thế để động viên bà thôi nhưng cũng đi về nhà chuẩn bị cơm nước và quần áo của chồng. Đêm đó bà nằm không ngủ. Khoảng nửa đêm, có ai đó gõ vào cánh cửa sổ. Nhìn ra, chút nữa thì bà ngất xỉu, chồng bà đang đứng ngoài sân, trên mình chỉ còn đồ lót. Té ra ông vừa trốn khỏi trại tù binh của bọn Đức.

Ngay từ đầu cuộc chiến, Vanga đã nói với một bà già hàng xóm, mẹ của Khrixôp là con trai của bà còn sống và sẽ trở về. Vợ chưa cưới của Khrixôp không tin và đi lấy người khác. Một năm sau, Khrixôp trở về và người đầu tiên nhìn thấy anh là người yêu cũ. Cô ta lập tức ngất xỉu. Bà già Khrixôp thì suýt ngất đi vì sung sướng.

Từ hai sự việc này khiến người ta kéo đến gặp Vanga rất đông. Ai cũng muốn Vanga nói về số phận người thân của mình. Vanga tiên đoán cho tất cả, và sau đó những lời tiên đoán đó đều trở thành sự thật.

Vanga cũng nổi tiếng là một bà lang chữa được rất nhiều bệnh. Bà chỉ dùng các loại cây cỏ. Và điều thú vị là tri thức của bà làm các chuyên gia có kinh nghiệm lúng túng. Những phương thuốc của bà thường đơn giản nhưng cho hiệu quả rất cao. Chẳng hạn, Vanga đã chữa khỏi cho một người đàn bà bị suy nhược thần kinh bằng một loại cỏ mọc ven con sông nhỏ gần đấy. Người đàn bà lành bệnh và giờ đây, bà ta vẫn sống khoẻ mạnh ở lứa tuổi tám mươi.

Vanga nói cho những người nông dân những gì làm họ lo lắng với độ chính xác tuyệt đối và giúp họ giải quyết các khó khăn.

Một người nông dân ăn cắp một con lợn con của một bà goá nghèo. Vanga nói trắng ra giữa bàn dân thiên hạ câu chuyện nhục nhã đó. Kẻ ăn trộm len lén ra về. Ngay hôm sau, bà goá mở cửa đã thấy con lợn đang đứng ở trong sân.

Dần dần, một huyền thoại về Vanga hình thành.

Một số người sợ khả năng nhìn thấu của Vanga nên gán cho cô những đặc tính thần bí. Kết tội cô là phù thuỷ. Một số người lại thán phục tài năng tiên tri của cô, phóng đại những điều cô nói và gọi đó là những điều “kỳ diệu của kinh Thánh”. Vanga được toàn thể mọi người yêu mến.

Sự kính trọng vẫn bao quanh Vanga cho tới ngày nay, giờ đây, Vanga vẫn tiếp tục được mời làm mẹ đỡ đầu cho những đứa trẻ mới sinh, được mời tới các lễ cưới. Mà không chỉ trong phạm vi vùng Petritrơ mà cả ngoài. Người ta mời bà những dịp lễ trong gia đình vì họ cho rằng sự có mặt của Vanga sẽ mang lại cho họ những điều may mắn, tốt lành, sự yên ấm, hoà thuận trong gia đình.

“Ngày 8 tháng 4 năm 1942 – Liupka kể – bà già Tina, một người quen của chúng tôi tới và nói rằng sẽ có một vị khách quan trọng tới thăm chúng tôi. Bà chỉ nói là năm 1918 ông ta đã trọ ở nhà bà. Bà ta đi ra rồi sau đó trở lại dắt theo một người đàn ông thâm thấp, mắt xanh, ria xén cẩn thận, mặc quân phục xám. Ông ta hỏi Vanga xem liệu chị có thể giành cho ông ta một thời gian không. Bà già Tina rỉ tai tôi: hãy nhìn ông ta cho kỹ, bởi đó chính là nhà vua Bungari – Vua Bôrits. Tôi ngạc nhiên, tôi chẳng bao giờ lại tưởng tượng nổi chuyện một vị vua tới thăm lều của chúng tôi. Còn Vanga thì lại đứng vào một góc phòng quen thuộc và trước khi vị khách kịp nói điều gì, chị ấy nói bằng giọng nghiêm khắc. “Vương quốc của Người đang lớn lên, nó trải rộng, nhưng người hãy chuẩn bị sẵn sàng để bỏ sở hữu của mình trở lại vào vỏ quả hồ đào – Rồi Vanga lặp lại – Hãy sẵn sàng. Sau đó im lặng, đoạn tiếp: - Hãy nhớ ngày 28 tháng 8!”

Nhà vua không nói không rằng ra về trong trạng thái lo lắng. Ông chết ngày 28 tháng 8 năm 1943.

Sau khi ông chết, ba người đàn bà từ Xôphia tới gặp chúng tôi. Họ nói họ là họ hàng của nhà vua và yêu cầu Vanga nói cho họ biết những gì đang đợi gia đình nhà vua. Vanga trả lời: “Khi trở về, các bà hãy treo lên giường nhà Vua một dải băng màu đỏ”. “Thế có thể là băng màu hồng hay màu trắng được không?” Ba người đàn bà không bao giờ trở lại nữa. Còn ngày 9 tháng 9 năm 1944, lá cờ đỏ chiến thắng tung bay trên cung Vua cũ.

duyniceboy
01-29-2010, 02:54 PM
CHƯƠNG 5

Năm 1942, biên giới Nam Tư – Bungari được mở thông. Những người từ Petritrơ và từ xa hơn nữa cùng nhau tới gặp Vanga. Ai cũng muốn Vanga nói trước cho về số phận của mình, của người thân và gia đình. Những người bệnh đến đây hy vọng được bà chữa lành.

Một lần có một số người lính thuộc trung đoàn II, quân đội Bungari tới gặp bà. Trong số họ có anh lính Đimitơrơ Guserôp, 23 tuổi, người làng Krưngllise. Anh chỉ muốn gặp chính Vanga để hỏi về cái tương lai chẳng hứa hẹn điều gì sáng sủa của mình. Người anh trai của anh là một nhà buôn vừa bị giết và cướp sách cả hàng hoá, để lại một mẹ già, một người vợ bị bệnh ho lao và ba đứa con thơ.

Đimitơrơ ngần ngừ ngoài sân chưa dám vào ngay. Bỗng Vanga từ trong nhà bước ra và gọi đúng tên anh, rồi nói: “Tôi biết vì sao anh tới đấy. Anh muốn biết tên những kẻ đã giết anh trai của anh. Có thể tôi sẽ cho anh biết, nhưng anh phải hứa trước với tôi là anh sẽ không trả hận. Anh sẽ sống và trở thành người làm chứng tội ác của chúng tại mỗi phiên toà”.

Vanga không cho phép ai trả thù. Bà tin tưởng vững chắc rằng con người chỉ được hoặc hướng tới điều thiện, bởi điều ác, trong đó có cả sự trả thù sẽ bị trừng phạt, và sự trừng phạt đó nó thường rất nặng nề và nếu không rơi lên đầu người trả thù thì cũng rơi lên đầu hậu thế của anh ta. Tôi thường hỏi bà tại sao lại có sự không công bằng như vậy, bà luôn trả lời: “Để cho đau hơn”. Tôi không thể hiểu ý nghĩa những lời nói này của bà.

Tôi còn nhớ một trường hợp như thế này. Mấy năm trước có một người nông dân tới gặp Vanga. Gia đình ông sinh tất cả 13 đứa con, nhưng tất cả đều chết khi còn nhỏ, đứa thứ 13 chết khi vừa 12 tuổi. Bác sĩ giải thích: rằng chính nguyên nhân những cái chết đó vì bà truyền vi trùng lao cho con mình, nhưng Vanga giải thích khác. Bà nhắc lại cho vị khách chuyện ngày xưa ông ta đã quá thẹn thùng vì bà mẹ mình già còn có mang nên đã lăng mạ bà rất nặng. Ông ta hối không kịp nữa: cả mẹ và cả em ông ta đều chết. Điều đó xảy ra lâu lắm rồi, người kia đã quên, nhưng Vanga thì không quên. Bà lập tức hiểu ngay tại sao thiên nhiên lại nặng tay đến như vậy đối với gia đình ông ta.

Nhưng chúng ta hãy quay lại với người lính trẻ. Khi ấy ở Xtrumitse, việc Vanga gọi đúng tên và nói đúng mối bận tâm của Đimitơrơ làm anh khinh hoàng đến nỗi không nhớ mình đã ra khỏi nhà Vanga như thế nào. Sau đó anh quay lại nhà Vanga nhiều lần nữa và lần nào họ cũng nói chuyện tay đôi với nhau rất lâu trong căn phòng của Vanga.

Vào giữa tháng tư, Vanga nói với em gái là Đimitơrơ đã ngỏ lời cầu hôn với cô và sắp tới họ sẽ chuyển sang sống ở Pêtritrơ.

Thời gian này, mấy em trai của Vanga cũng không có nhà. Vaxin vào lính và đóng tại Đupnitse còn Tôm bị lùa sang Đức lao động khổ sai.

Sáng ngày 22 tháng 4, một chiếc xe ngựa dừng trước cửa nhà Vanga. Anh chành Đimitơrơ hồi hộp nhảy xuống. Tin mừng lan nhanh khắp hàng xóm và mọi người đến để chia tay với cô gái tiên tri. Nhiều người thậm chí trách Vanga là can tâm dời quê hương xứ sở. Vanga không để tâm những lời này vì chuyến đi này chính là chia tay với cuộc sống đầy tủi cực của đời thiếu nữ. Tuy tương lai cũng rất mù mịt nhưng cô vẫn hy vọng là những ngày tương sáng đang ở phía trước.

Của hồi môn của cô dâu chỉ mang tính chất tượng trưng. Trên vai của Vanga vắt một chiếc khăn quàng lụa màu đỏ do cô tự may lấy và cô mang theo mình một cái chảo và một cái bi đông bằng đồng để làm vật kỷ niệm về ngôi nhà của bố mẹ. Đó là toàn bộ đồ đạc của cô. Liupka ngồi cạnh chị và ngoái đầu như nhìn lại lần cuối cùng ngôi nhà nhỏ bé của họ.

Chiều ngày hôm đó, họ về tới Petritrơ. Họ đứng trước một ngôi nhà nát không thể gọi là nhà ở được nữa. Từ các khung cửa sổ nhàbên cạnh, những đôi mắt mở to tò mò nhìn họ. Một số người bước ra đường, một vài cô nào đó thể hiện sự ngạc nhiên của mình thành lời: “Làm sao một người mù lại có thể làm bà chủ được, mắt mũi thế kia thì còn làm với ăn gì được”. Nhưng Vanga không để tâm những lời nói như vậy.

Họ bước vào hành lang dài bẩn và tối, hai bên là hai căn phòng nhỏ. Sau này một căn trở thành phòng ngủ còn một căn thì Vanga ngồi tiếp khách khứa.

Ở phía sau còn có một căn phòng nữa, sau mới được dựng lên. Liupka nhớ lại, trong có một số tấm phản gỗ trên để một tấm nệm, gối là các túi vải trong nhồi bẹ ngô. Đó là giường ngủ của bà lão Magdalena bảy mươi tuổi – mẹ của chàng rể với ba đứa cháu con của người anh trai bị giết và thêm hai đứa cháu con một người anh khác nữa. Lại thêm một người con dâu bị bệnh ho lao. Sự bần cùng thấy rõ khắp nơi.

Như vậy Vanga đã đổi được cuộc sống đói khổ lấy một cuộc sống khác cũng không kém đói khổ và khó khăn hơn.

Ngày 10 tháng 5 năm 1942, Vanga chính thức kết hôn cùng Đimitơrơ và bắt đầu chăm lo đến cuộc sống gia đình. Người đàn bà trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Bà lão Magdalena không hài lòng với sự lựa chọn của con trai mình và thậm chí còn nói: “Chẳng lẽ số phận mày nó lại như vậy”. Có lẽ bà hy vọng con trai sẽ tìm một cô vợ lực điền khoẻ mạnh để cứu cái gia đình đông người toàn người già, người ốm và con nít này. Vanga im lặng nhẫn nhục chịu đựng và nhanh chóng chứng tỏ với những người còn hoài nghi những gì cô có thể làm được. Cùng với Liupka, Vanga thu dọn, lau chùi nhà cửa, sửa sang, quét lại vôi tường và chẳng bao lâu, ngôi nhà đã sáng sủa hẳn lên. Vanga không cho những người dân trong làng đến biến cái sân nhà mình thàng cái chợ để mua bán nữa và sắp xếp nó lại. Thấy rõ là ngôi nhà có một bà chủ biết thu vén.

Gia đình họ sống như những gia đình khác thời chiến tranh. Nhưng điều đó tiếp diễn không được lâu. Tiếng đồn về tài tiên tri của Vanga nhanh chóng lan xa, dòng người lại đổ về nhà Vanga. Đimitơrơ không hài lòng về chuyện này. anh nghĩ là giờ đây Vanga phải từ bỏ việc tiên đoán để giành toàn bộ thời gian cho gia đình. Do rất tôn trọng Vanga, anh cảm thấy rất khổ tâm khi mình không có khả năng nuôi được gia đình. Vanga cũng rất yêu chồng nhưnh cô cho rằng sứ mạng của mình là phục vụ mọi người và cái sứ mạng đó còn lớn lao hơn những nghĩa vụ và trách nhiệm với gia đình, thậm chí cô còn thấy cuộc sống riêng của mình cũng phải gình cho người khác.

Dòng người đổ đến nhà Vanga lo âu mệt mỏi những với những tia hy vọng trong ánh mắt.

Trong những năm tháng ấy, rất nhiều thanh niên Bungari chiến đấu chống lại bọn phát xít trong các dội du kích. Những người thân của họ thường tìm đến Vanga hy vọng nghe được những tin tức về họ. Bọn cảnh sát cũng biết được điều đó. Hai viên cảnh sát Xugurôps và Ladadốp hầu như ngày nào cũng đến nhà Vanga, tung ra những lời đe doạ, bắt Vanga phải khai ra những gì đã nói với thân nhân của những “kẻ thù của chính quyền”. Nhưng Vanga đã im lặng. Chúng trả thù bằng cách bắt Vanga đi lao động bắt buộc mà trước đó một người mù như cô vẫn được miễn.

Rồi lệnh động viên quân dự bị được ban bố. Đimitơrơ bị động viên vào bộ phân quân đội đóng ở Hy Lạp. Từ giã Vanga anh hứa là nếu sống sót trở về, anh sẽ xây cho cô một ngôi nhà mới. Đimitơrơ rất khéo tay và rất giỏi nghề mộc mặc dù chẳng học ở đâu cả. Nhưng lời hứa của anh chỉ thực hiện xong vào năm 1947.

Tiễn chồng Vanga chỉ nói: “Coi chừng nước”.

Quả thật, những ai sống sót từ Hy Lạp trở về phần nhiều đều bị ngã nước và các bệnh gan khác do uống thứ nước độc trong các đầm lầy Hy Lạp.

Năm 1942, Maria Gaigurôva, một bà giáo thành phố Xandaxiki thường đến thăm Vanga. Vanga và Liupka rất mến bà. Bà có bốn cô con gái và hai con trai. Vanga thường đùa: “Cô Maria ạ! Cháu gả con Liupka nhà cháu cho một trong hai cậu bên nhà đấy”. Chuyện xảy ra đúng như vậy. Liupka đã gặp gỡ với Xtôian, người con trai lớn của bà Maria. Họ yêu nhau và chẳng bao lâu đã làm lễ cưới. Đó chính là cha và mẹ tôi.

Cả bà ngoại Maria và ông nội Bôrít của chúng tôi đều là những người học rộng thời ấy. Ông tôi chơi được đàn vĩ cầm, biết vẽ và đọc các pho kinh điển bằng tiếng Pháp.

Là một người được giáo dục trong tinh thần của chủ nghĩa duy vật, ông tôi không tin lắm vào những lời tiên đoán của Vanga và thậm chí có một lần khi Vanga đến thăm nhà, ông đã thử tài của cô. Ông hỏi: “Cô có biết điều gì xảy ra với hài cốt của cha tôi, người đã bị bọn Thổ giết chết năm 1912 ở Mennic không? Cho đến bây giờ, người ta vẫn chưa tìm thấy hài cốt của ông ấy”. Vanga khuyên ông nên đến Mennic tìm một người có tên là Petrơ, người đã chứng kiến sự việc trên và có thể kể lại tỉ mỉ những gì đã xảy ra trên thực tế. Ông Bôrit ngạc nhiên nhưng quyết định tiếp tục cuộc thử nghiệm. Ông đến Mennic và quả thật đã tìm được gia đình ông Petrơ. Ông này đã chết, nhưng người con trai của ông ta đã kể cho ông tôi những chuyện mà ông ta đã kể lại nhiều lần. Té ra, cụ ngoại tôi là một linh mục và đồng thời là một người tích cực đấu tranh vì sự trong sáng của tiếng Bungari, trường học Bungari, nhà thờ Bungari, đã bị quân Thổ bắt và giết hại một cách dã man. Bọn Thổ căm thù ông đến nỗi tiếp tục hành hạ hài cốt của ông. Chúng ném xương vung vãi dưới một gốc cây, còn trong hòm của ông thì chúng bỏ xương của một con ngựa vào.

Sau chuyện này, ông ngoại tôi bắt đầu tin vào tài tiên tri của Vanga và quyết định hỏi cô về số phận của hai người anh trai của ông đã rời khỏi đất nước vào năm 1912. Vanga trả lời: Sêrô nằm trong mộ, Nicôla còn sống. Tôi trông thấy ông ấy cách đây không lâu, ông ấy còn ở tại một thành phố lớn của nước Nga. Ông ấy học ở đấy và trở thành một nhà khoa học. Nhưng giờ đây ông ấy đang là tù binh trong một trại. Chú đừng sợ, ông ấy sẽ trở về vào mùa xuân này.

Khi chú trông thấy một người mặc bộ đồ xám, tay sách hai cái vali thì đó chính là anh trai của chú đấy!

Câu chuyện thật khó tin, ông tôi không thể tin được là người anh trai bị mất tích của mình trở thành một nhà khoa học Xô Viết, cũng không tin chuyện ông trở thành tù binh. Lần này thì ông không tin ở Vanga nữa và không có hy vọng sẽ gặp lại anh trai.

Nhưng ngày tháng trôi đi và một hôm một người lữ hành mệt mỏi dừng lại trước ngôi nhà của ông tôi. Trên người ông ta mặc một bộ đồ xám và dưới đất đặt hai chiếc va ly. Không ai biết ông ta cả. Cả ông ngoại tôi cũng không thấy quen. Nhưng đó chính là anh trai Nicôla của ông. Người em trai út đã trở về quê hương sau 22 năm phiêu lãng. Sau đó ông đã xác nhận tất cả những gì Vanga nói là đúng.

Tham gia từ năm 1919 vào hoạt động của các tổ chức cộng sản, năm 1912 hai anh em Sêrô và Nicôla buộc phải chạy trốn sang Nga. Nicôla đến Ođetxa. Sau nhiều năm gian khổ, ông tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sư điện. Ông đã tham gia xây dựng các nhà máy thuỷ điện ở tất cả các nước cộng hoà Xô viết. Khi quân Đức xâm lược Liên Xô, Nicôla bị bắt làm tù binh và bị đưa về Đức. Sau nhiều lần bị tra tấn dã man, ông trốn thoát được khỏi trại. Sau chiến tranh, ông quyết định trở về Bungari.

Mùa xuân năm 1944, vào mùa anh đào chín, chồng của Vanga từ Hy Lạp trở về. Ông chỉ còn lại một nửa. Vì uống phải nước đầm lầy độc, gan ông sưng to và ông thường phải chịu những cơn đau khủng khiếp. Ông yếu đến nỗi không cầm nổi chiếc rìu trong tay nữa. Nhưng nhớ lời hứa với Vanga, ông bắt đầu dựng một ngôi nhà mới – 1945.

Càng ngày càng nhiều người đến mong ở sự giúp đỡ của Vanga. Bà dậy từ lúc trời còn sáng, nấu ăn cho những người thợ tới giúp Đimitơrơ dựng nhà, sau đó tiếp những người mong được gặp bà.

Một sĩ quan cùng vợ từ Xôphia đến gặp Vanga nhiều lần. Người ta đã quen mặt họ, thậm chí một số người còn ghen tị với vẻ hạnh phúc của họ nữa. Nhưng Vanga nói: Đừng vội ghen tị. Tương lai sẽ cho thấy có đáng ghen tị không. Sau này người ta điều tra rằng trong chiến tranh, viên sĩ quan là một tên đao phủ. Hắn đã bị kết án tử hình.

Nghe tin này, Vanga nói với những người khách của mình “Đừng có ghen tị với bất cứ ai trước khi biết chung cuộc của cuộc đời anh ta”.

Còn một trường hợp của những năm đó nữa. Một người đàn bà vùng Petritrơ để lạc mất đứa con gái ba tuổi của mình ở chợ, tìm khắp nơi không thấy, người mẹ bất hạnh tới gặp Vanga. Vanga nói rằng con gái của bà bị những người Digan bắt trộm. Bây giờ tìm kiếm chỉ vô ích, mà nhiều năm sau hai mẹ con mới lại sẽ gặp được nhau.

Hai mươi năm sau, người đàn bà đó đến Blagoegrat và tình cờ nghe được câu chuyện câu chuyện của hai người đàn bà trên sân ga Krexana. Nhờ đó bà biết rằng ở một làng gần đó có mấy gia đình Digan sống. Một cô gái Digan trẻ khác biệt hẳn với đồng bào của mình vì có mái tóc màu hạt dẻ sáng, đôi mắt xanh và những cử chỉ không giống dân Digan.

Một cái gì đó run rẩy trong tim người mẹ – đã bao năm bà chờ đợi lời tiên đoán của Vanga trở thành hiện thực. Bà tìm đến làng đó, dễ dàng tìm được nhà của cô Digan có mái tóc màu hạt dẻ. Tim bà như muốn vỡ ra vì hồi hộp. Người đàn bà Digan trẻ không tin lời kể của bà ta và nói rằng từ bé đến lớn cô ta sống với những người Digan, còn chồng của cô ta thì muốn tống cổ mụ già lếu láo. Nhưng “bà mẹ vợ” đã quát anh ta im mồm và kể rằng nhiều năm trước đây những người Digan khác đã trao cho bà ta cô bé bắt trộm được tại một hội chợ ở vùng Petritrơ.

Người đàn bà tội nghiệp bèn kể cho cô gái nghe về tuổi thơ và trong tâm trí của cô ta đã có điều gì đó mơ hồ như đang sống lại. Mắt cô mờ đi và cô nhớ lại được rằng hồi bé cô sống trong một ngôi nhà trong sân có một cái giếng sâu và gần đó có một tảng đá rất to. Hoàn toàn tin tưởng là mình đã tìm được con gái, người đàn bà mời cô gái đi với mình về làng. Đến đó, cô gái Digan nhớ lại được rằng mình có một người anh trai nữa. Cô nhận ra ngôi nhà cũ và đi lại một cách tự tin. Người làng kéo đến. Cuộc gặp mặt diễn ra rất cảm động. Nhiều người không cầm nổi nước mắt.

Tháng 5 năm 1944, em trai út Tôme của Vanga cũng tới Đức trở về và dừng chân ở Xtrumitse. Còn ngày 10 tháng 6, người em trai khác là Vaxin đột ngột xuất hiện ở Petritrơ để từ biệt mọi người: Anh muốn đến Xtrumitse gia nhập đội du kích.

Hồi ấy, vào thời gian cuối cuộc đại chiến, Lữ đoàn du kích Makeđôn thứ tư được thành lập ở Xtrumitse. Nhiều trai tráng ghi tên gia nhập đội quân du kích. Liupka cũng quyết định bí mật đi cùng với họ. Riêng với em trai, Vanga khóc khuyên anh đừng đi. Bà nhắc đi nhắc lại: Đừng đi, người ta sẽ giết em khi em mới 23 tuổi mất thôi. Người em trai không tin. Thế là hai anh em Liupka tới Xtrumitse gia nhập du kích.

Ngày 8 tháng 10 năm 1944, Vaxin, lúc đó đã trở thành chỉ huy một phân đội công binh nhận nhiệm vụ phá sập một chiếc cầu gỗ gần làng Turka. Các đơn vị Đức đang rút lui qua chiếc cầu này. Vaxin hoàn thành nhiệm vụ nhưng chẳng may chứng minh thư của anh lại rơi tại trận địa. Bọn Đức tìm thấy chiếc chứng minh thư ấy. Một người kiếm củi bị bắt đã khai rằng có nhìn thấy chàng trai này trong làng. Lập tức toàn bộ dân làng bị lùa vào ngôi nhà thờ. Cả Vaxim cũng bị lùa vào trong ấy. Để cứu mọi người, Vaxim đã bước ra và nói: Chính tao đã phá cầu. Vaxim đã chết hết sức đau đớn.

Vaxim chết vào ngày 8 tháng 10 đúng 23 tuổi tròn!

Năm 1947, chồng Vanga xây dựng xong nhà và bị ốm nặng. Ông kiệt sức sau khi từ Hy Lạp trở về và ngôi nhà càng làm ông cạn kiệt. Ông thường thấy những cơn đau trong dạ dày, một người bạn mách ông làm dịu cơn đau bằng cách mỗi ngày uống một cốc rượu. Đimitơrơ làm theo và ông không kịp nhận thấy là mình dần dần trở nên nghiện ngập. Ông thường đóng chặt cửa, uống một mình. Có thể là trong lòng ông có một tấn bi kịch nào đó nhưng ông không muốn chia sẻ với mọi người. Cả Vanga, cả bác sĩ đều khuyên Đimitơrơ phải thay đổi cách sống, nhưng ông không muốn nghe ai hết. Vanga đi lại trong nhà như một cái bóng dưới hai mi mắt quầng thâm. Đêm đêm bà khóc thầm. Bà biết rằng tình thế của chồng mình đã vô vọng nhưng bà giấu kín điều đó trong lòng và thầm mong rằng chúa Trời sẽ ban cho một phép lạ.

Đimitơrơ chữa bệnh bằng rượu trong vòng 12 năm trời cho đến khi phải vào bệnh viện. Kết quả chẩn đoán: xơ gan, Vanga tuyệt vọng. Bà luôn luôn ở cạnh chồng. Khi bác sĩ kín đáo ngụ ý rằng mọi chuyện sắp kết thúc, Vanga nói: “Tôi biết. Cái chết đã đến gần lắm rồi”. Vào một trong những ngày cuối cùng, Đimitơrơ thấy nhẹ nhõm hơn và thiếp đi. Vanga cũng thiếp đi ngay trên sàn, dưới chân giường của ông. Liên tục sáu tháng trời Đimitơrơ nằm viện, bà tận tuỵ chăm sóc chồng.

Mẹ tôi kể lại những ngày đau buồn ấy:

- Khi Đimitơrơ hấp hối, Vanga quỳ gối trước giường của ông, nước mắt chảy ròng ròng từ đôi mắt mù của chị ấy. Chị ấy thì thầm một cái gì đó. Hoặc là cầu xin chúa Trời xá tội, hoặc là từ biệt với chồng – tôi không biết rõ, Đimitơrơ mất ngày 1 tháng 4 năm 1962, thọ 42 tuổi. Khi Đimitơrơ tắt thở, Vanga thôi khóc và thiếp đi. Chúng tôi làm tất cả mọi việc cần thiết, mọi người kéo đến chia buồn nhưng Vanga vẫn ngủ. Chị ấy ngủ cho đến tận lúc làm lễ hoả thiêu. Sau đó bà nói: “Tôi tiễn anh ấy đến tận chỗ định trước cho anh ấy”.

Sáng sớm hôm sau, tôi ra nói với những người đến chờ gặp Vanga rằng chồng chị ấy mới chết, chị ấy không thể tiếp ai được cả. Nhưng Vanga lập tức phản đối: “Gọi mọi người lại đây. Tôi sẽ tiếp tất cả mọi người. Họ cần tôi”.

Từ ngày đó, chúng tôi, các cháu gái của Vanga – Kraximira Anna và Đimitơrơ và cả mẹ của chúng tôi là Liupka nữa trở thành những người chứng kiến cuộc sống goá bụa, cay đắng dài đằng đẵng của bà.

Tôi nhớ bác tôi vào những ngày đó: dưới tấm khăn len goá bụa là gương mặt tái nhợt bất động. Toàn bộ con người bà sống cuộc sống nội tâm tập trung một cách căng thẳng, tách rời hoàn toàn khỏi thế giới chung quanh. Còn dòng người thì vội vàng cứ đến, cứ đến mỗi ngày một đông hơn từ khắp mọi nơi trên Trái đất. Họ, những con người khác nhau, từ thông thái cho đến mù chữ, những người tin và những người hoài nghi, những người khoẻ mạnh và những người đau ốm, họ bước qua cửa nhà Vanga với giễu cợt hoặc với nỗi sợ. Vanga không từ chối một ai hết.

Tôi còn nhớ một trường hợp xảy ra đã lâu. Một người phụ nữ trí thức trẻ đến với mẹ ở Xunđanxki nhờ mẹ dẫn đến gặp Vanga. Chỉ vì tò mò thôi, lúc đó sân nhà Vanga đang có rất nhiều khách xếp hàng chờ đến lượt mình. Vanga bỗng bước ra khỏi cửa và gọi đúng tên ông, thậm chí còn gọi đúnh tên thân mật chưa từng sử dụng ngoài khung cảnh gia đình. Không tin ở tai mình nữa, cha tôi đi theo Vanga vào nhà. Sau đó Vanga kể rất nhiều chuyện đúng về quá khứ của ông. Cha tôi lấy vợ hai lần, Vanga đã mô tả đúng đám cưới của ông, kể nhiều chi tiết tỉ mỉ đến nỗi có chi tiết mẹ tôi cũng không biết. Sau đó Vanga nói về tương lai. Bà nói rằng mười bốn năm nữa ông sẽ chết vì bệnh ung thư. Bà nói cả về tôi và em trai tôi nữa. Bà nói rằng tôi có hạnh phúc nhưng chồng tôi sẽ chết sớm, tôi sẽ goá bụa với đứa con nhỏ trên tay. Sau đó tôi sẽ lấy chồng lần thứ hai và lần này tôi sẽ không hạnh phúc. Về em trai tôi thì Vanga nói số phận của nó rất bi thảm: Nó sẽ chết trong một trường hợp không may khi vừa 20 tuổi.

Cha tôi rất kinh hoàng khi nghe Vanga phán như vậy. Ông định giữ kín bí mật này, nhưng không chịu đựng nổi nên đã tiết lộ với người vợ thứ hai của mình do đó mà chúng tôi được biết. Thời gian trôi đi, cha tôi bắt đầu ốm. Thoạt đầu, ông nghĩ là ông bị loét dạ dày. Người ta mổ cho ông hai lần. Lần thứ hai chỉ mổ ra rồi đóng lại. Ông mất năm 1958 vì bệnh ung thư, đúng vào ngày mà Vanga đoán trước.

Bản thân tôi lấy chồng và cảm thấy rất hạnh phúc. Nhưng chồng tôi đột ngột ốm và chết. Lần lấy chồng thứ hai tôi không gặp vận may và đành phải li dị. Trước đó không lâu em trai tôi ngã tàu điện chết. Nó mới hai mươi tuổi. Tất cả những gì Vanga tiên đoán đã lần lượt diễn ra chính xác đến kinh ngạc.

Và một trường hợp như thế này nữa, đứa con nhỏ của một nhà hàng xóm chúng tôi ốm ba tuần liền, nhiệt độ lúc nào cũng giữ ở mức 38o – 39oC. Các bác sĩ không xác định nổi nguyên nhân của căn bệnh mặc dù hết sức cứu chữa, bệnh tình vẫn không hề thuyên giảm. Chúng tôi mang đứa trẻ đó đến cho Vanga xem. Bà bắt đi mua ngay một số loại lá thuốc về đun nước tắm cho đứa bé. Sau lần thứ nhất nhiệt độ bắt đầu xuống, lần thứ hai đứa trẻ bắt đầu chơi, và chẳng bao lâu đã khỏi hẳn.

Một nữ diễn viên ba lê người Nga lấy chồng người Bungari sau khi sinh con thấy có hiện tượng mất chức năng của các cơ quan vận động. Các bác sĩ chẩn đoán rằng cô ta sẽ không múa được nữa. Người ta mách cho cô gặp Vanga. Người nữ diễn viên vô cùng sung sướng khi nghe Vanga nói rằng chẳng bao lâu nữa cô sẽ khỏi, sẽ còn sinh thêm hai đứa con nữa và sẽ múa cho sự vinh quang của nền ba lê Nga.

Chuyện xảy ra đúng như vậy.

…Sau cái chết của người chồng Vanga không thể xử lý hết được số người xúm trước ngôi nhà của bà nữa. Một lần họ chen lấn và suýt đè bẹp chính Vanga. Sau trường hợp này, bà yêu cầu cha mẹ tôi chuyển đến Petritrơ sống cùng với bà để hỗ trợ cho cuộc sống của bà. Đó là vào năm 1966.

Bây giờ tôi sẽ dẫn lời cha tôi kể về Vanga.

- Gia đình chúng tôi thường hay nói chuyện về Vanga, bố mẹ tôi đều rất kính trọng chị ấy và thường nói ý kiến của chị ấy trong nhiều việc. Đáng ngạc nhiên nhất là chị ấy đã biết tôi và số phận của tôi trước khi gặp tôi (khi tôi đang ở lính) và tiên đoán đúng rằng tôi sẽ lấy em gái của chị ấy.

Các con tôi cũng được chị ấy đoán trước số phận. Tất cả đều diễn ra đúng như chị ấy tiên đoán.

Chẳng hạn Vanga nói rằng con gái đầu lòng của chúng tôi sẽ học ngoại ngữ, thích chữ tượng hình, sau khi tốt nghiệp phổ thông sẽ thi vào khoa ngữ văn Bungari, nhưng nó sẽ nghe lời khuyên của người khác và chuyển qua học tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó nó học các thứ tiếng nước ngoài khác nữa và học cả chữ tượng hình. Con gái út của chúng tôi thì Vanga tiên đoán sẽ trở thành bác sĩ giỏi. Con bé có khiếu âm nhạc, chơi dương cầm hay và mơ ước về một sự nghiệp âm nhạc. Quả thật, Anna của chúng tôi trở thành một bác sĩ giỏi. Còn con trai Đimitơrơ của chúng tôi thì Vanga bảo nó sẽ trở thành thợ cơ khí và đúng là nó đang làm thợ cơ khí thật.

Rất nhiều người không tin vào khả năng kỳ lạ của Vanga cho rằng bà có những người giúp việc chuyên đi điều tra những thông tin cần thiết về những người đến nhờ bà giúp đỡ. Điều đó không chỉ không đúng mà còn không thể có được vì có hàng ngàn người từ khắp thế giới về đây gặp Vanga. Làm sao có thể điều tra về họ được. Ngoài ra, Vanga còn đoán trước số phận của trẻ sơ sinh và cả những trẻ chưa sinh nữa, nhìn thấy và nói chuyện với những người đã chết từ hàng trăm năm trước đây, với những người mà thậm chí cả họ hàng thân quyến của họ đã lãng quên họ. Vanga biết cây cỏ, vị thuốc nào chữa được những cơn bệnh nghiêm trọng mà y học đã bó tay. Làm sao bà lại có khả năng kỳ lạ đó?

Đây là câu hỏi mà chúng ta cần tìm câu trả lời!

Khi Vanga thấy rằng không thể giúp khắp lượt hàng nghìn người tập trung ở nhà bà, bà yêu cầu chính quyền giúp đỡ. Người ta thông cảm với những lo lắng của bà và thi hành các biện pháp giúp đỡ. Thế là từ ngày 3 tháng 10 năm 1967, Vanga, theo chính lời bà nói, đã bắt đầu đi làm việc Nhà nước. Người ta cử ra những người điều hành trật tự trong sân nhà bà, quan tâm đến giờ giấc nghỉ ngơi của bà.

Nói cách khác, Vanga đã được chính thức công nhận, và bà trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học nghiêm túc, đứng đầu là tiến sĩ Gheocghi Lôdanốp.

Đáng tiếc là công việc này bị dừng lại và các tư liệu thu được đã không được công bố (ít ra là ở Bungari). Nhiều người muốn đọc các tài liệu về Vanga nhưng không thể kiếm ra, và do đó nảy ra mối nghi ngờ ở đây có một điều bí mật gì đó mà chính phủ Bungari muốn giữ. Ở Bungari lan truyền đi những lời đồn đại lạ lùng. Chúng càng làm tăng thêm sự tò mò đối với khả năng của Vanga. Năm 1966, một tạp chí đã đăng một tư liệu đầu tiên về Vanga, trong đó ngoài lời phỏng vấn tiến sĩ Lôdanốp ra còn có những cố gắng nhằm giải thích hiện tượng này. Trong thời gian đó, ở nước ngoài tư liệu về Vanga tiếp tục được công bố. Bà trở nên rất nổi tiếng: những bức thư và lời chào từ rất nhiều nước trên thế giới gửi về chứng tỏ điều đó.

Từ năm 1970, ở Mỹ người ta đã xuất bản một cuốn sách về những người có khả năng lạ. Ở chương đầu tiên gọi là Vanga Đimitrôva – Nhà tiên tri Bungari, các tác giả đã dựa trên cơ sở mô tả một loạt sự kiện trong cuộc sống của Vanga và những đoạn phỏng vấn những người đã gặp bà để cố gắng giải thích: hiện tượng và đưa ra một loạt vấn đề thú vị. Chương này dài gần 30 trang và là bài nghiên cứu sâu sắc nhất hơn cả hiện tượng tiên tri cho tới thời gian đó.

Điều lạ lùng nhất trong khả năng kỳ lạ của Vanga là việc bà “tiếp xúc” (cũng chẳng thể dùng một từ nào khác ở đây) với những người chết. Quan niệm của Vanga về cái chết khác hẳn với quan niệm chung. Tôi dẫn dưới đây một trong những cuộc nói chuyện của Vanga và nhà đạo diễn P.I (năm 1988).

- Tôi đã nói với anh là sau cái chết, thân thể bị phân huỷ, tiêu biến đi như mọi sinh vật khác. Nhưng có bộ phận của cơ thể không bị tiêu huỷ.

- Có lẽ bà muốn nói đến linh hồn của con người?

- Tôi không biết là phải gọi như thế nào. Tôi cho rằng cái không bị tiêu huỷ trong con người sẽ phát triển lên một trạng thái cao hơn mà chúng ta còn chưa biết gì cụ thể về nó cả. Nhưng có thể mô tả nó như thế này: một người chết mù chữ, sau đó chết như một học trò, sau đó chết với trình độ đại học, và sau đó chết như một nhà bác học.

- Như vậy có nghĩa là có tới mấy cái chết chờ đợi một con người?

- Có tới mấy cái chết, nhưng cái ban đầu tối thượng không chết.

Đối với Vanga, cái chết chỉ là sự kết thúc của thể xác, còn con người vẫn bảo tồn sau cái chết.

Một lần Vanga kể cho một người đàn ông về bà mẹ đã chết của anh ta, anh ta nói: Có phải sự có mặt của tôi đã gợi lên hình ảnh người mẹ đã chết của tôi không? Vanga trả lời: Không, hình ảnh tự chúng đến. Đối với họ, tôi là cái cổng để họ bước vào thế giới này.

Vanga kể cho tôi nghe chuyện sau đây: “Một lần có một người đàn bà trẻ tuổi đến gặp bác, bác lập tức hỏi cô ta: Cô có nhớ người mẹ đã chết của cô có một cái sẹo ở đùi trái không? Cô ta trả lời là có và hỏi tại sao bác biết chuyện đó. Tại sao ư…Vì bản thân người chết đang đứng trước mặt bác. Đó là một người đàn bà trẻ. Bác nhớ là bà ta vén tà váy lên và nói: Bà hãy hỏi con gái tôi xem nó có nhớ cái sẹo sau lần ngã này không. Sau đó người chết nói với bác: Bà hãy nhắn qua vị khách của bà cho Magdalena là đừng tới nghĩa địa nữa. Cô ấy đi lại khó khăn lắm, cô ấy không có đầu gối. Magdalena là em gái của người chết. Cô ta phải dùng chân giả.

Lại còn một trường hợp như thế này nữa. Một người đàn bà có con phục vụ trong quân đội không may gặp tai nạn chết. Bà ta tới gặp Vanga. Vanga hỏi:

- Chàng trai tên gì?

- Marko – Người mẹ trả lời.

- Nhưng cậu ấy lại nói với tôi rằng cậu ấy tên là Mario.

- Vâng, đúng vậy, ở nhà chúng tôi gọi nó là Mario.

Qua Vanga, chàng trai còn thắc mắc tại sao không nhìn thấy em gái. Bà mẹ trả lời là em gái anh ta đã tốt nghiệp đại học và hiện đang làm việc ở một thành phố khác.

Khả năng đặc biệt này của Vanga đã gây ấn tượng mạnh đối với nhà phê bình văn học nổi tiếng Dđravkô Petrôp. Ông đã cho in năm 1975 những tư liệu vô cùng thú vị mang đầu đề “Người đàn bà Bungari tiên tri” trong một tạp chí uy tín ở Xôphia. Tôi xin lược trích bài báo đó:

“Cho đến mùa thu năm 1972, tôi đánh giá rất thấp hiện tượng nhà nữ tiên tri sống ở thành phố nhỏ Petritrơ gần biên giới Hy Lạp. Từ sáng sớm tinh mơ, rất nhiều người đã tụ tập trong nhà bà. Bà biết về số phận của những người mất tích, vạch trần các tội ác, đưa ra các chuẩn đoán y học, kể về quá khứ. Điều thú vị là bà không chỉ nói về hiện tại mà cả về tương lai. Bà nói chuyện tuyệt đối chính xác về nhiều chuyện”.

Trong một số buổi tiếp mà tôi có mặt, Vanga đề nghị khách của mình đưa cái đồng hồ đeo cho bà (thông thường người ta đưa cho bà một miếng đường). Người khách ngạc nhiên khi thấy Vanga muốn sờ nắn cái đồng hồ để đoán. Nhưng Vanga nói: “Tôi cầm trong tay không phải đồng hồ mà là bộ não của anh”.

Một lần tôi tình cờ đến Petritrơ để nghỉ ngơi mấy ngày. Trong thời gian đó, tôi tới nhà người đàn bà tiên tri nghe rồi lại đi. Thành thực mà nói tôi không có ý định trở thành đối tượng tiên đoán của bà. Hình như Vanga hiểu tâm tư của tôi trong những ngày đầu tiên tôi tới Petritrơ nên sau này bà nói với một người bạn của tôi: “Anh ấy đến với ý định không muốn biết gì về mình cả, nhưng tôi đã nói hết cho anh ta”. Và bà bật lên cười cái cười đặc trưng của bà.

Nhưng những điều thú vị nhất diễn ra về sau.

Người bạn đã giới thiệu tôi với Vanga có ôtô và anh ấy đề nghị chúng tôi vào thành phố sau bữa ăn trưa. Anh mời cả Vanga và em gái của bà nữa. Chúng tôi tới cạnh làng Xamôilôvơ, gần đó có những đống đổ nát của một thành phố xưa do vua Xamuil xây dựng. Khi đi trong xe, chúng tôi hoàn toàn im lặng. Khi đến nơi, chúng tôi quyết định xem pháo đài một tí. Vì không nhìn thấy gì nên Vanga và em gái của bà ngồi lại trên xe nói chuyện với nhau. Tôi đi lại cách đó không xa. Khi tôi cách xe khoảng 7 – 8 mét, bỗng Vanga bắt đầu nói – Tôi hiểu là những lời nói của bà nói về tôi. Bà làm tôi kinh hoảnh ngay từ câu nói đầu tiên: Ông bố Petrơ của anh đang ở đây. Tôi đứng sững như Hămlet khi thấy hồn ma người cha của mình. Tôi có thể trả lời gì đây? Cha tôi đã chết trước đó 15 năm. Vanga bắt đầu nói về ông, chi tiết đến nỗi tôi chết sững vì kinh ngạc. Bà nhắc đi nhắc lại mấy lần rằng bố tôi đang đứng trước mặt bà. Tôi cũng không hình dung ra được phép chiếu hình mà ông đang ở trong là quá khứ, hiện tại hay tương lai. Thậm chí Vanga còn chỉ tay lên ông nữa. Rõ ràng là bà nhận được những thông tin (Nhận như thế nào?!) về những sự kiện trong nhà chúng tôi cũng quên từ lâu. Đối với Vanga không tồn tại các khái niệm quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong trí não bà thời gian là một dòng chảy thống nhất, ít ra là tôi có cảm tưởng như vậy. Bà biết rằng ông là một luật sư nhưng đã có thời gian dạy chính trị kinh tế học và luật dân sự trong một trường phổ thông trước năm 1944.

Sau đó, Vanga bắt đầu nói về ông chú của tôi. Bà nêu tên hai người. Về người chú thứ ba đã chết một cách bi thảm tự tôi kể với bà. Cái chết của ông bị bao phủ bằng một bí mật. Vanga nói rằng nguyên nhân cái chết của ông là sự phản bội. Tôi rất ngạc nhiên khi bà bỗng hỏi: “Trong gia đình anh ai tên là Matei?”. Tôi trả lời đó là tên của ông tôi. Ông chết khi tôi mới năm tuổi. Đã 40 năm trôi qua từ ngày ấy, không hiểu tại sao Vanga lại biết được tên ông.

Khi tôi trở về Xôphia, một người bạn nghe chuyện hỏi tôi liệu có mơ về ông mình trong thời điểm đó không. Tôi trả lời: Không! Tôi rất ít nghĩ về ông, thậm chí ngay cả khi đang ở Xôphia, nơi có một số họ hàng của tôi, nghĩa là nơi đó có lý do để thỉnh thoảng nhớ về ông. Thậm chí cả những người bạn thân nhất của tôi cũng không biết tên ông.

Vanga nói về những người ruột thịt của tôi khá lâu, khoảng 10-15 phút. Bà kể cả về cô cháu gái của tôi đã nhầm khi làm bài thi vào trường tổng hợp. Bà nói cả về những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống, chẳng hạn về việc hệ thống hơi nóng để sưởi trong căn hộ của tôi bị hỏng. Sau đó bà khuyên tôi nên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nhiều hơn nữa. Bà nói: hãy để cho mặt Trời trở thành chúa Trời của anh! Sau đó bà nói tôi có hai bằng đại học (hai cái đầu, theo cách nói của bà).

Vanga nói rằng bà trông thấy những chiến binh của vua Xamuil. Họ đi thành đội ngũ trước mắt bà. Lịch sử ghi lại rằng họ đã bị chặt đầu theo lệnh của vua Vaxili II. Vanga hỏi tôi ai đã ra lệnh chặt đầu họ, và y người dân tộc nào. Tôi rất ngượng vì lúc đó tôi không nhớ, tôi đã quên hoàn toàn lịch sử triều đại đó. Sau này một người bạn cứ hỏi tôi làm sao lại có thể quên vua Vaxili II một khi biết rõ về lịch sử đế quốc Hy Lạp đến thế. Có lẽ lúc đó tôi quá khinh ngạc trước khả năng kỳ dị của Vanga mà quên mất chăng.

Tôi đã có thể tìm hiểu khả năng nhìn thấy quá khứ và tương lai của Vanga. Giữa chúng tôi có những cuộc nói chuyện vô cùng thú vị.

Vanga nói về cái chết. Chúng tôi không dời mắt nổi khỏi gương mặt bất động của bà. Rõ ràng là bà nhìn thấy một cái gì đó. Bà kể về một số trường hợp khi bà cảm thấy cái chết đến. Bà kể rằng bà thấy trước chính xác giờ chết của chồng mình. Sau đó bà kể là một lần bà đang nấu mứt mận trong sân, bà nghe rõ cái chết gầm gào trên những ngọn cây. Trong trí tưởng tượng của Vanga cái chết mang hình một người đàn bà đẹp, tóc để xoã. Tôi có cảm tưởng trước mặt tôi là một nhà thơ chứ không phải là một nhà tiên tri.

… Một lần một người đàn bà trẻ từ Xôphia tới gặp Vanga. Vanga quay mặt về phía cô ta và hỏi ngay:

- Thế bạn trai cô đâu?

Người đàn bà trả lời rằng đã chết đuối trong một lần đi tắm mấy năm trước.

Vanga mô tả người thanh niên và nói rằng nhìn thấy anh ta như người sống, rằng anh ta đang nói chuyện với bà.

- Tôi nhìn thấy anh ta trước mắt mình. Anh ta cao lớn, da ngăm ngăm và trên má có một cái nốt ruồi. Tôi nghe thấy tiếng nói của anh ta. Anh ta có chút khuyết tật trong giọng nói.

Người đàn bà nói tất cả đều đúng. Vanga tiếp tục:

- Anh ta nói với tôi: Chẳng ai có lỗi trong cái chết của tôi cả. Tôi tự ngã xuống nước và bị gãy cột sống. Anh ta hỏi ai được cái đồng hồ và các đồ vật khác của anh ta. Anh ta đang nhớ lại những người thân và bạn bè cũ. Anh ta khuyên người yêu cũ nên lấy chồng trong thời gian tới và nói rằng cuộc hôn nhân đó sẽ hạnh phúc.

Một nhà khoa học người Tây Ban Nha có danh hiệu giáo sư kể với Vanga rằng mẹ của ông ta là một người rất nhân hậu. Nhưng bà đã sống suốt đời nghèo khó. Vanga ngắt lời ông ta và nói:

- Để tôi kể tiếp cho ông nghe. khi sắp chết, mẹ ông nói: “Mẹ chẳng có gì để lại cho con ngoài một chiếc nhẫn gia bảo. Con hoàn toàn đơn côi. Chiếc nhẫn đó sẽ giúp đỡ con và bảo vệ con trong suốt cuộc đời”.

Nhà khoa học kinh ngạc nói rằng tất cả đều đúng như vậy.

- Được – Vanga nói tiếp – thế chuyện gì đã xảy ra với chiếc nhẫn?

Người Tây Ban Nha kể lại rằng một lần, khi ông trở đã trở thành một nhà khoa học có tiếng, ông đi nghỉ ở biển, chiếc nhẫn bị tụt khỏi ngón tay và rơi xuống nước, ông đã cố gắng tìm kiến nhưng không thấy.

- Ông đã làm gì thế, hỡi con người kia! Ông đã đánh đứt mối liên hệ với mẹ mình rồi! – Vanga kêu lên.

Nhà khoa học ngượng ngập thú nhận rằng đôi lần trong đầu ông cũng thoàng qua ý nghĩ đó, nhưng là một nhà khoa học có thế giới quan duy vật, ông đã xua đi ý nghĩ này. Nhưng từ khi chiếc nhẫn mất, ông liên tiếp gặp những không may.

Mấy năm trước, trong một trận lụt một đôi vợ chồng mất đứa con duy nhất của họ. Về lôgích thì có thể đoán là đứa trẻ chết đuối, nhưng họ không muốn tin vào điều đó. Họ tới gặp Vanga để được biết sự thật. Vanga nói với họ: “Đừng khóc. Số phận con của anh chị là như vậy. Nó quả là không còn sống nữa rồi, nhưng thi thể nó không ở chỗ mà người ta tìm. Nó ở dưới chỗ mà con sông rẽ ngang. Ở đó có những cây toả ra và thi thể nó bị mắc vào đó. Tôi nhìn thấy nó như đang còn sống. Nó vươn tay về phía tôi, nó gọi tôi để tôi chỉ cho anh chị chỗ đó. Nó muốn được chôn cất”.

Một thời gian sau, người nhà của đôi vợ chồng nọ đến để cám ơn Vanga vì họ đã tìm được thi thể của đứa bé chính ở chỗ Vanga chỉ ra.

Những trường hợp như thế có hàng nghìn, không thể kể xuể được và phải công nhận rằng đây không phải là một đề tài dễ chịu.

Vanga không chỉ nhìn thấy thế giới của những người chết. Bà còn nhìn thấy sự tàn lụi và sự phục sinh của các thành phố. Chẳng hạn thành phố Mennic. Bà kể:

- Mỗi cọng cỏ, mỗi hòn đá, mỗi tấc đất ở đây đều thiêng liêng, ở đây tôi thấy rất dễ chịu và nghỉ ngơi tốt hơn mọi nơi khác. Ở đây tôi nhận thêm năng lượng, sức lực và sự hứng khởi. Tôi ngồi lên một hòn đá nào đấy và im lặng. Đừng ai nên quấy rầy tôi vào lúc này. Tất cả những gì quanh tôi đang nói chuyện với tôi – cả các hòn đá, các đống đổ nát và cả bóng râm nữa. Thành phố kể cho tôi nghe lịch sử của những thế kỷ đã qua từ lâu. Tôi nhìn thấy những con người đã chết, những đền miếu đã bị phá huỷ, những ngôi nhà được dựng lên từ hàng ngàn năm trước đây.

…Một lần tôi đến Mennic cùng với em gái tôi. Cô ấy mang theo đứa con trai sáu tháng tuổi. Tôi có cảm tưởng như tâm hồn thằng bé nói với tôi bằng giọng nói của Vanga “Bác ơi, bác có nhìn thấy Mennic không? Nó giống bác quá!?”

Tôi rất buồn và bật khóc: Tại sao lại giống Mennic? Vanga ngụ ý gì? Lịch sử cổ xưa của thành phố này hay là sự hoang tàn, trống vắng của nó?

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi.

Vào đầu những năm 70, Vanga rất muốn ngày ngày đến Mennic và tiếp các vị khách đông đảo của mình ở đấy. Bà cho rằng ở thành phố này, khả năng của bà thể hiện mạnh mẽ nhất, rằng ở đó bà có thể kể mọi chuyện thú vị về mọi người. Nhưng những hoạt động như thế trong thành phố bé nhỏ này gặp phải một loạt những vấn đề và ý muốn của Vanga không thể thực hiện được.

Lại thêm một trường hợp thú vị nữa.

Năm 1983, đạo diễn P.K chia sẻ với Vanga về ý định dựng một bộ phim về Orphei. Vanga nói ngay rằng sẽ chẳng thành công được vì quan điểm của nhà đạo diễn về nhân vật thần thoại này hoàn toàn sai lầm. Bà nói như sau: cuộc nói chuyện này được ghi lên băng ghi âm:

- Khả năng của Orphei không phải thánh thần mà có nguồn gốc từ Trái đất. Ông ta nghe Trái đất và hát. Những thú hoang đứng nghe ông hát nhưng không hiểu gì cả. Orphei là người Trái đất. Ông ta cảm thấy sung sướng trên mặt đất. Ông nghe những giai điệu của Trái đất, những giai điệu của bầu trời tuyệt diệu hơn nhiều nhưng Orphei không nghe được chúng.

- Anh hãy nói cho tôi nghe – Vanga nói với nhà đạo diễn – trong phim Orphei là người giàu hay người nghèo? Tôi thì thấy ông ta trong bộ quần áo rách tả tơi, nhưng móng tay rất dài. Lúc nào ông ta cũng hát, đất cho ông ta giọng hát. Bởi vậy mà ông ta lôi thôi bẩn thỉu. Anh có xây dựng hình ảnh ông ta như vậy không? Không thể. Điều tồi tệ chính là ở chỗ đó.

Vanga rất thích trò chuyện với các loại hoa. Bà coi chúng là các sinh vật sống cũng như con người. Bà nhất thiết dừng chân trước một bông hoa, vuốt ve nó, tưới nước cho nó và thì thầm điều gì đó. Bà nói rằng những bông hoa kể cho bà nghe nhiều điều thú vị. Hệt như những câu chuyện cổ tích.

Trong số toàn bộ số phận của bà có biết bao nhiêu chuyện không thể giải thích nổi. Nếu sau một cái chết của người thân thiết, bạn đến gặp Vanga thì do ảnh hưởng của sự kiện đau buồn đó, bà có thể phát ốm, thậm chí có lần bà ngất đi. Khi có người như vậy đến, Vanga thường nói ngay: Sao anh không mang hoa đến? Thông tin về người chết đó mà chính sự có mặt của anh cũng đủ thông báo cho tôi được các loài hoa tiếp nhận. Và các loài hoa biết truyền thông tin tế nhị hơn nhiều so với con người và do đó cứu tôi khỏi bị những chấn động mạnh.

Nhưng Vanga không thích bó hoa. Bà nói: “Những bông hoa đẹp nhất khi còn liền cành. Bó hoa cũng như một đám đông, ở đó cá tính con người bị xoá nhoà”

Mẹ tôi nhớ một lần Vanga nhờ bà ra sân, nơi những người muốn gặp Vanga đang xếp hàng chờ và gọi một người đàn bà vào. Vanga nói tên và giải thích: là bà ta là một người trồng hoa ở Xôphia. Được hỏi tại sao lại biết có người trồng hoa đang đợi, Vanga nói: thì bông Thi xa vừa mới nói cho tôi biết đó thôi. Người đàn bà kia muốn hỏi bà hãy nói gì với đứa con hư hỏng của mình. Gọi bà ta đến đây, tôi sẽ nói cái cần nói với bà ta!

Vanga từng nói chuyện rất lâu về đề tài hoa với nhà văn Xô viết Lêônit Lêônôp trong lần nhà văn này tới Bungari vào năm 1980. Bà nói rằng bà ghen tị với Lêônôp về cái vườn hoa rộng có nhiều loài hoa đẹp của ông. Sau đó bà trách Lêônôp việc ông đã tặng cho hội nhà văn Liên Xô chậu dây leo nhiệt đới lớn mà ông có. Bà khuyên ông nên kiếm một cây khác vì loài dây leo có tác dụng gây hứng khởi. Nó là loài hoa của các hoạ sĩ và các diễn viên.

Như tôi đã nói ở trên, Vanga từng nói chuyện với họa sĩ Reric về hoa. Trở lại câu hỏi của ông về ý nghĩa của các loài dược thảo trong y học, Vanga trả lời: “Chuyện này không thể nói bằng một hai lời được. Đó là cả một đề tài. Thế giới bắt đầu bằng thực vật và cũng kết thúc ở thực vật. Cây cỏ ở mỗi nước chỉ có giá trị dược liệu đối với người nước đó. Đã có thiên định như vậy. Mỗi người phải chữa bệnh bằng cây cỏ của đất nước mình”.

duyniceboy
01-29-2010, 02:55 PM
CHƯƠNG 6

Sức khoẻ con người, chẩn trị bệnh tật là những vấn đề luôn được Vanga nghiên cứu rất nghiêm túc. Bà cho rằng hầu như tất cả các bệnh đều có thể chữa khỏi bằng cây cỏ và trong lĩnh vực này Bungari là một đất nước may mắn bởi vì ở đây có rất nhiều thứ có thuốc thật sự quý giá.

Vanga tin tưởng rằng đã sắp tới ngày nhân loại thoát khỏi thứ bệnh nguy hiểm là ung thư, rằng sẽ tìm được thuốc chống ung thư. Bà nói: “Sẽ tới ngày bệnh ung thư bị cùm vào xích sắt”. Giải thích lối tiên đoán lạ lùng này Vanga trả lời rằng thuốc chống ung thư cần phải chứa nhiều sắt bởi vì trong thức ăn và nước uống của con người hiện nay đang thiếu chính chất sắt. Bà cho rằng trong tương lai không xa các nhà khoa học sẽ tìm ra một loại thuốc cần thiết để hồi phục sức khoẻ con người. Chế phẩm này chủ yếu sẽ chứa các hormon của ngựa, chó và rùa, bởi vì theo bà “ngựa thì khoẻ, chó thì dẻo dai, còn rùa thì sống lâu”. Theo ý kiến Vanga các loại cây cỏ thuốc đặt biệt có tác dụng rất tốt nếu như người ta tắm gội bằng nước sắc của chúng bởi vì các hoạt chất sẽ hấp thụ đầy đủ qua da người. Vanga không khi nào chống lại y học chính thống và thừa nhận những thành công của nó trong mọi lĩnh vực khác nhau. Cách điều trị của Vanga không bác bỏ các phương thuốc truyền thống mà chỉ bổ sung cho chúng mà thôi. Nhưng Vanga cho rằng lạm dụng các loại thuốc là nguy hiểm bởi vì “chúng sẽ đóng sập những cửa ngõ mà qua đó bằng tác động của những loại cỏ thuốc, thiên nhiên có thể phục hồi sự thăng bằng đã bị bệnh tật phá vỡ trong cơ thể người ốm” Vanga tán thành cách điều trị bằng châm cứu. Nhưng hãy nghe bà nói với một vị bác sĩ châm cứu thăm bà:

“Chữa bằng kim đó là một phương tốt, nhưng để đạt được hiệu quả cao nhất không nên dùng kim loại mà dùng kim bằng gốm như thời xa xưa người ta đã làm. Cần phải sấy chúng bằng lửa chứ không phải bằng điện, bởi vì không có điều đó thì trong cơ thể người cũng đã có đủ điện rồi”…

Vị bác sĩ phản đối rằng phương pháp như thế là một bước thụt lùi. Nhưng Vanga trả lời

- Vâng, tất cả mọi thứ đều quay vòng, những vòng tròn của nó. Hãy chăm chú nhìn ra xung quanh mình và anh sẽ dễ dàng tin vào điều đó.

Cũng nên lưu ý rằng với những người khác nhau mắc cùng một thứ bệnh thì Vanga cho những lời khuyên khác nhau về cây thuốc và hướng điều trị. Vanga biết chắc rằng mỗi người là một cá thể không lặp lại vì thế cần phải có cách điều trị riêng cho từng người. Tôi muốn dẫn một số trường hợp được chính các bệnh nhân khẳng định – nhờ những lời khuyên của Vanga mà tình trạng sức khoẻ chung của họ khá hẳn lên, nhiều người khỏi hẳn bệnh.

Một người bị bệnh bạch cầu, Vanga khuyên nên uống nước ép từ rễ cây miên quỳ (cối xay), với một đứa trẻ cũng mắc bệnh này thì bà lại chỉ dùng nước ép từ cây hoa này.

Bệnh nhân xơ gan bà đề nghị uống sữa hoà với bột lúa mì trắng.

Có đứa trẻ bị thương ở đầu nên đâm ra kém ngủ, bà đã mách một cách đơn giản và hiệu nghiệm: tắm cho đứa trẻ bằng sương sớm vốn phủ đầy cỏ vào buổi bình minh ngày hè. Sau đó dùng tã lót ẩm quấn đứa trẻ lại. Bố mẹ đứa trẻ đã làm đúng như vậy. Rất nhanh sau đó bố đứa trẻ đã tới tận nhà Vanga thông báo: đứa trẻ khá hơn và bình phục nhanh chóng. Vanga coi sương sớm mùa hè là một điều kỳ diệu bởi cho rằng vào các buổi sớm mai cỏ cây thường tiết ra nhiều hoạt chất chữa bệnh và do vậy sương sớm không chỉ tốt cho người bệnh mà còn cho người khoẻ nữa.

Một đứa trẻ khác, suốt ba tháng trong tình trạng hâm hấp sốt, Vanga khuyên nên tắm cho nó bằng những thứ ép từ loại nhu chua. Mẹ đứa trẻ làm theo, cơn sốt lui, nó ngủ được.

Người bị ếch-zê-ma, bà khuyên nên hái một bó hoa rừng, sắc lấy nước đặc nóng thấm lên những chỗ bị bệnh

Một chàng trai bị đau thận, bà khuyên nên uống nước chè nấu bằng hạt bí.

Đứa trẻ bị động kinh bà ra lệnh tắm cho nó bằng nước một số cây cỏ trong rừng.

Người phụ nữ mười năm bị đau ở ngực, Vanga bảo đó là bà ta bị viêm màng phổi, bà khuyên nên làm thuốc đắp từ bột mì trộn với men nhà làm, cho thêm dấm, dầu thực vật và rượu chua.

Những trường hợp tương tự rất nhiều thật khó kể xiết. Em trai tôi Đimitrơ Gaigurov miêu tả khá nhiều trường hợp thú vị, ở đây tôi xin dẫn ra những ghi chép của cậu ấy. “Suốt ngày ở bên cạnh dì mình nên tôi có nhiều cơ hội chứng kiến những buổi tiếp khách của dì. Tôi không thể nhắc đến sự kinh ngạc mà tôi đã trải qua vào đầu tháng 5 năm 1988”.

Ba ngày trước đó dì tôi rất yên lặng trầm ngâm, không muốn nói chuyện với ai và đề nghị đừng khuấy động bà. Ngày thứ tư bà gọi lại bảo ngồi xuống bên cạch. Và bỗng dưng bà nói với tôi bằng một giọng rất lại khiến tôi sởn gai ốc. Nguyên văn là thế này: “Ta là linh hồn của Giana Đ-Ark. Ta xuất hiện từ nơi xa xôi và đang hướng về Aênggôla. Ở đó máu đang đổ chan hoà và ta cần phải giúp lặp lại hoà bình ở đó”. Sau khi ngừng lời một chút bà tiếp tục vẫn bằng giọng ấy: “Đừng kết tội linh hồn này. Nó không phải của bạn. Nó không phải của ai hết. Người chứng kiến điều này là mẹ cháu (mẹ chúng tôi là Liupka), người đã mang nó trong chậu giặt khi bà ta lâm chung. Lúc đó trong một tích tắc, linh hồn của bà đã bay ra còn một linh hồn khác đã chui vào thân xác. Mẹ của cháu đã bình phục để tiếp tục cuộc sống trần thế. Nhưng giờ đây tâm hồn của bà không còn là ruột thịt với các cháu nữa và không thể nhận ra các cháu”. Lại ngừng lời một chút rồi Vanga tiếp tục: “Mẹ của các cháu cần phải thăm viếng Nhà Thờ Đức Bà Pari (notre Dame de Paris), ở đó bà phải thức cầu nguyện suốt đêm – bằng cách đó nhiều điều bí mật lớn về thế giới xung quanh sẽ mở ra trước các cháu”

Sau đó là một im lặng kéo dài, Vanga dần dần trở lại bình thường. Mặt hết tái và trở lại phớt hồng. Nhưng dì tôi vẫn còn uể oải như ngái ngủ. Không thể giải thích được điều kỳ lạ gì đã trước mắt tôi nữa.

Tôi còn nhớ những trường hợp lạ lùng khác liên quan trước hết đến phương pháp chữa của bà. Một lần vào đêm khuya, từ låA0ng Colarovo người ta đưa bạn tôi là B.P tới. Bạn tôi bỗng dưng bị mất trí. Anh ta túm lấy rìu và lao vào người thân. Anh ta điên cuồng tới mức anh em của anh đã phải trói anh lại. Bạn tôi thay đổi tới mức khó nhận ra. Tôi đánh thức dì dậy và hỏi làm thế nào bây giờ. Ngay lập tức bà phán: “Hãy mua một chiếc bình gốm mới, đổ đầy vào nó nước từ con sông gần nhất và hãy rẩy lên người ốm ba lần. Sau đó ném bình xuống đá để cho nó vỡ thành mảnh nhỏ. Dù thế nào cũng không được ngoảnh về chiếc bình vỡ”. Mặc dù thật bất tiện, nhưng chúng tôi đã đánh thức ông thợ gốm hàng xóm dậy. Ông rất bối rối trước cuộc viếng thăm lạ lùng, nhưng cũng đưa cho chúng tôi một chiếc bình gốm. Dòng sông ở Petrise chảy qua trung tâm thành phố còn nhà của chúng tôi thì ở bên bờ cao của nó. Chúng tôi ra sông làm tất cả những gì Vanga ra lệnh. Thật may là đêm khuya nên “nghi lễ thánh thần” của chúng tôi diễn ra suôn sẻ. Nhưng điều ngạc nhiên nhất là anh bạn tôi tỉnh lại, ngủ say suốt đêm, sáng trở lại bình thường. Về những hành động phá phách của mình, anh không nhớ chút gì. Hay một trường hợp khác, có một người trẻ tuổi thợ lái máy xúc đến cầu cứu Vanga: Khi làm việc trên đầm lầy cạn trong bùn thối anh đã gãi sứt đầu gối. Vết thương mưng mủ, sưng lên và tím đen lại, các bác sĩ bảo đành phải cắt đi. Nhưng Vanga khuyên nên bắt một chú ếch, tốt nhất là đúng nơi chàng thanh niên đã làm hỏng chân mình, lột lấy da của nó đắp vào chỗ đau. Bố mẹ chàng trai y lời. Cơn đau dịu ngay, chàng trai ngủ liền hai ngày (suốt thời gian dài hầu như không ngủ được). Anh tỉnh dậy và tháo băng trên đó dính lại cái ngòi mủ của nhọt. Một tuần sau vết thương liền miệng, chân anh được cứu thoát khỏi phải cưa. Cách chữa trị lần này của Vanga làm tôi rất ngạc nhiên, sau lần đó tôi biết rằng trong da ếch có chất làm suy yếu (trung hoà) thậm chí cả nọc rắn độc. Thành ra, có lẽ chẳng có gì dễ sợ trong “toa thuốc” đó cả, chỉ có điều nó chưa được y học chính thống biết tới mà thôi.

Có lần chính tôi cũng được dì Vanga chữa bệnh. Một thời gian dài tôi bị đau bên vai trái. Bác sĩ chuẩn đoán: bị đọng muối. Vì chữa chạy sẽ đau và lâu. Biết dì mệt mỏi vì phải tiếp quá nhiều người ốm, mãi tôi không dám nói với dì. Cuối cùng khi cơn đau không thể chịu nổi tôi đành thú thực. Vanga ra lệnh lấy hai gói trầm hương nghiền thành bột và trộn với 50 gram dấm (làm từ táo tây) và quét thứ bột này lên băng rồi buộc vào chỗ đau trong ba tối liên tiếp. Tôi y lệnh. Cơn đau biến mất và căn bệnh đó tôi không bị lại nữa.

Một người bạn tôi ở Petritse cũng bị đúng bệnh này. Nhưng Vanga lại bảo nhúng một mảnh vải len vào xăng, đắp lên chỗ đau và ấp lên phía trên một đĩa đồng nóng già. Làm ba buổi như thế thì hết đau.

Anh K.B rất nhiều năm khốn khổ vì bệnh chảy máu bên trong ruột, không sao chữa khỏi. Vanga bảo anh ta tìm loại tầm gửi trắng mọc trong rừng thông, giã nhỏ những chồi non của nó ngâm vào cốc nước và uống thứ nước đó vào mỗi buổi sáng. Phương pháp này hoá ra rất hiệu nghiệm.

Mẹ tôi tập hợp cả một pho “bách khoa toàn thư” những trường hợp Vanga chữa khỏi bệnh khác nhau và những lời khuyên của dì. Đây là một vài lời khuyên của dì.

Mùa hè nên đi chân trần càng nhiều càng tốt để không cách đứt mối liên hệ với đất. Hãy để trẻ em chạy nhảy chơi đùa trên mặt đất nhiều. Điều đó giúp chúng tránh khỏi những bệnh thường mắc vào mùa đông. Thức ăn cho trẻ em là chất lỏng. Không nên cho chúng ăn khô.

Ngoài việc tắm táp trong sông ngòi ao hồ, thì nên rửa chân trước khi đi ngủ bằng nước “thiên nhiên” (nước sông, hồ). Đôi khi bà bảo chúng tôi dẫn bà vào trảng rừng ở Rupit và ở đó mặc dù không nhìn thấy gì bà vẫn có thể chỉ cho chúng tôi các loại cây cả và công dụng của nó. Chẳng hạn, Vanga bảo: “Cỏ ba lá không đem lại giấc ngủ bình yên cho những ai trồng nó bên cạnh nhà. Đặc biệt nó rất độc trong thời kỳ ra hoa. Dì không nhìn thấy chúng thật, nhưng lại nghe thấy chúng nói với dì. Dì ngửi thấy mùi cần tây, đấy là một loại thuốc kỳ diệu chữa phong thất, thấp khớp. Cháu vừa dẫm lên một loại cây rất tốt để trị những vết thương khó lành…”

Tôi còn nhớ mãi trường hợp Vanga chữa cho anh bác sĩ khỏi ung nhọt, áp xe bằng cách cho anh ta uống nước luột hạt đậu xanh 20 ngày liền.

Mẹ tôi kể ngày bé chúng tôi thường bị sốt rét. Vanga đã chữa khỏi cho chúng tôi như sau: đặt quả trứng gà tươi vào chiếc đĩa men sạch rót vào đó 200 gr rượu dấm, đặt đĩa ở ngoài sân dưới ánh nắng mặt trời. Đến ngày hôm sau vỏ trứng tan ra. Khi đó Vanga trộn đều lên và cho chúng tôi uống lúc đói bụng. Bệnh lui.

Có thể kể ra hàng nghìn những trường hợp chữa bệnh kỳ lạ của Vanga. Nhưng có lẽ ghi chép lại và phát hiện ra những hạt nhân hợp lý trong thực tiễn chữa bệnh của bà đó là công việc của các nhà chuyên môn.

Có lần tôi hỏi Vanga, con người cần phải làm gì để giữ gìn món quà vô giá là sức khoẻ, có hay không những phương thuốc phổ quát?

- Sao cơ? – Bà hỏi lại – Rất đơn giản! Những lời khuyên đặc biệt thì không có đâu. Mỗi người biết anh ta không nên làm gì. Dì chẳng phát hiện ra điều gì mới đâu, tuy nhiên dì cũng muốn nhắc lại những nguyên tắc sơ đẳng:

Trước hết không được ăn quá no. Thực phẩm bây giờ chứa quá nhiều các chất hoá học nhân tạo, thành ra có thể ngộ độc chúng. Cần tăng lượng lúa mạch đen trong khẩu phần thức ăn (nên ăn bánh mì đen).

Nên uống nước nấu từ các loài cây cỏ nhiều hơn nữa. Giảm hẳn hàm lượng mỡ trong thức ăn.

Không hút thuốc. Thuốc lá là kẻ giết người dần dần, êm ái. Đi ngủ sớm – vào 22h và dậy sớm – vào 5h.

Nên giữ sạch sẽ trong sinh hoạt, không tắm nước quá nóng.

Hãy cẩn thận! Sắp tới sẽ xuất hiện những bệnh mà mọi người chưa từng biết tới (đây là những ghi chép vào năm 1981). Mọi người sẽ bị ốm nặng mà không rõ nguyên nhân. Nhưng tai họa phổ biến đó có thể bị chặn đứng. Tất cả nằm trong tầm tay của chúng ta.

duyniceboy
01-29-2010, 02:57 PM
Chương 7: CON NGƯỜI VÀ SỨC kHỎE TÂM HỒN

Vanga cho rằng con người trước hết phải quan tâm tới tình trạng tinh thần của mình. Hãy xem bà nói gì về điều này:

- Mọi thực thể sống, toàn bộ Trái đất và cả Vũ trụ đều tuân theo một nhịp điệu và trật tự Vũ trụ nghiêm ngặt nhất định. Phá vỡ trật tự đó, dù là ở mức độ nhỏ nhất cũng dẫn tới những hậu quả lớn khó tránh khỏi, mà nhân loại sớm muộn gì cũng phải trả giá đắt cho chúng. Và bây giờ cũng đang phải trả giá.

- Vâng, nhưng là thế nào để tiến tới trật tự đó? – tôi hỏi

- Đừng phá vỡ sự hài hoà.

- Nhưng làm thế nào để sống nhịp nhàng với nó?

- Người hiền sẽ đạt tới sự hài hoà với thiên nhiên và con người xung quanh. Lòng tốt đó là phẩm chất chủ yếu của con người. Con người không có quyền trở nên vô dụng, không đem lại lợi ích cho người khác, mỗi người, dù anh ta là ai cũng đều phải thực hiện sứ mệnh của mình trên mặt đất… Mỗi một cuộc đời đều có khả năng tự phát triển vì những mục đích cao cả. Và tất nhiên chúng ta không có quyền coi thường trách nhiệm cao cả đó. Nhưng nếu trao quyền tự do đó cho người tồi thì chúng ta sẽ vô tình trở thành đồng loã cho tội lỗi của cái ác, chúng ta kìm hãm quá trình hoàn thiện đạo đức.

Tôi muốn minh họa ý kiến của Vanga về bản chất của sự phát triển con người hài hoà bằng một số ví dụ:

…Một người đàn ông đứng tuổi, mệt mỏi, ăn bận xuyềnh xoàng đứng bối rối trước mặt Vanga. Sau khi trấn tĩnh được ông ta hỏi:

- Bà chị hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì bây giờ – bà nhà tôi mới chết, tôi còn trơ trọi một thân một mình.

- Tại sao lại một mình? – Vanga ngạc nhiên – Tôi nhìn thấy 7 người con của anh.

- Vâng – người đàn ông trả lời – tôi có nhiều con nhưng chúng chỉ có những mối quan tâm của chúng thôi, chứ chẳng có thời gian dành cho cha. Chúng hoàn toàn quên tôi rồi.

- Anh bạn ơi, đối với những người bị con cái lãng quên, ở nước ta đã có những nhà dưỡng lão, ở đó có thể sống yên ổn cuối đời. Hãy để cho nhà nước lo cho anh, anh sẽ còn sống lâu và sống tốt hơn bây giờ. Tôi hiểu, là một người cha, anh sẽ đau đớn khi nghe những lời của tôi, nhưng hãy biết rằng, các con anh sẽ phải trả giá nghiệt ngã cho việc con thường nghĩa vụ làm con của mình. Trong cuộc sống của chúng ta, thờ ơ với người thân, đui điếc trước nỗi khổ người khác, chắc chắn sẽ không tránh khỏi bị trừng phạt.

Mỗi lần mẹ tôi đề nghị Vanga tiếp một người quen của mình. Bà này thường khó ở vì một điều gì đấy. Nhưng Vanga lại cương quyết trả lời:

- Không, bà ta hoàn toàn chẳng ốm đau gì hết! Bà ấy là một người tồi! Bà ấy muốn sao cho cả thế giới tội nghiệp của chúng ta chỉ quanh xung quanh bà ấy và các con bà. Tôt hơn hết hãy để bà ấy nhớ lại xem mình đã lớn lên từ cảnh bần hàn thế nào! Bây giờ bà ấy có đủ thứ mình mong muốn. Nhưng lòng tham vô đáy, mong ước có nhiều đồ đạc, nhà cửa hơn nữa đã hành hạ bà ta. Đấy chính là bệnh của bà ta. Chẳng có loại thuốc nào chống lại căn bệnh này được!

Còn có một chuyện rất thú vị.

Một hôm có đôi vợ chồng đứng tuổi ở một làng nhỏ bé Pleven tới gặp Vanga để xin lời khuyên về những nỗi cay đắng và bệnh tật của mình. Bỗng nhiên Vanga quay sang phía ông chồng và hỏi:

- Thế anh không quên chuyện về cái dây thừng đấy chứ? Người đàn ông ngơ ngác không hiểu, nhưng vợ ông ta lập tức nhớ ngay ra chiếc dây bất hạnh đó và bà kể lại:

Khi cả hai còn trẻ và khỏe, họ có một mảnh vườn lớn. Họ trồng dưa hấu rồi đem dưa đi bán. Tiền thu được cũng khá. Một lần trên đường ông chồng đem dưa ra chợ bán, có một cậu bé đu lên đằng sau xe telega của ông và moi lấy một quả. Ông ta nổi nóng vớ lấy chiếc dây nằm dưới tay mình đánh cậu bé tàn bạo. Vợ ông phải khó khăn lắm mới giằng nổi cậu bé ra khỏi tay ông chồng đang nổi điên.

- Vì sự tàn bạo của mình bây giờ anh phải trả giá đó. Quả dưa có đáng gì không?

Không có lẽ mọi người đến với Vanga không phải vì những chuyện vạch vãnh. Tôi rất thích ý kiến của một trong những người kính trọng Vanga.

Có thể Vanga không tiên đoán cho bạn điều gì cả, mà đơn giản bạn chỉ cần xin một lời khuyên là đủ. Bởi bà đọc được từ cuốn sách của cuộc sống.

Có lần tôi hỏi bà:

- Dì hãy nói xem con người là gì?

Vanga trả lời:

- Ngay cả trong câu hỏi đã chứa đựng một câu trả lời: một thực thể lăng xăng, hối hả không ngừng quan sát, nghiên cứu tìm tòi và không tìm thấy cái đáng đi tìm. Xin lỗi, dì đùa đấy. Nếu nói một cách to tát, con người như là một phần của vũ trụ bao la – thì chẳng là gì cả. Một hạt cát bé nhỏ trong cái vô biên. Nhưng trong con người có một ngọn lửa thần thánh. Vì thế con người rất thường xuyên biến chuyển bản thân, không mệt mỏi tìm tòi và nghiên cứu những bí mật còn tồn tại, làm nên những phát minh chưa từng thấy, dũng cảm đi tới sự mạo hiểm chết người. Cái nhìn cương quyết của con người nhằm hướng bầu trời, những khoảng không Vũ trụ không làm cho con người sợ hãi, con người nhìn thấy và đếm được các vì sao. Hai trăm năm nữa, con người sẽ tiếp xúc với những anh em về trí tuệ từ những thế giới khác. Những người hàng xóm – Hungari của chúng ta sẽ thiết kế được những máy móc mà nhờ đó họ lần đầu tiên bắt được những tín hiệu từ Vũ trụ. Còn những tri thức đúng đắn về Vũ trụ thì nên tìm trong những cuốn sách cổ thiêng liêng.

- Còn trước đó thì sao?

- Thế giới đang trải qua nhiều thảm hoạ và những chấn động mạnh. Bản thân nhận thức của con người cũng thay đổi. Thời kỳ nặng nề đang tới. Mọi người được phân chia theo dấu hiệu niềm tin (tôn giáo). Một học thuyết thông thái và cổ nhất sẽ quay lại với họ. Người ta hỏi dì: “Khi nào thì thời kỳ đó tới?” Không nhanh đâu! Xiry vẫn còn chưa sụp đổ (Câu chuyện này được ghi lại vào tháng 5 năm 1979 và xin thề là tôi không biết ý nghĩa phù thuỷ là gì bao hàm trong bốn từ cuối cùng).

Mẹ tôi kể:

- Mẹ thường sang nhà Vanga vào sáng sớm, khi dì còn chưa bắt đầu tiếp khách. Nhiều khi nhìn thấy dì rất mệt mỏi, mẹ hỏi tại sao dì không ngủ và thường nghe câu trả lời: %E2??Tôi không thể ngủ được bởi vì ban đêm tôi có mặt ở những điểm nóng khác nhau trên Trái đất, tôi nhìn thấy những cảnh tượng khủng khiếp của chiến tranh và tai họa. Tôi muốn ngủ chút ít bây giờ, nhưng không thể bởi vì mọi người lại đã đợi tôi”.

- Sau một trận lụt lớn ở Scopine – mẹ tôi kể tiếp – mẹ cùng dì Vanga sang Strumitsa tới thăm người bạn cũ Panđe Ascanov. Ông hết sức tuyệt vọng vì nhà cửa của ông ở Scopine hầu như bị lũ cuốn sạch. Tiện thể Panđe hỏi Vanga: “Có nên chữa lại ngôi nhà hay không, tốt hơn hết là tích góp tiền xây nhà mới”. Vanga trả lời: “Còn nhà mới gì nữa! Hãy chạy khỏi Scopine, bởi sắp tới ở đây sẽ bùng nổ một cái gì đó còn khủng khiếp hơn trận lụt vừa qua. Hãy ở lại Strumitsa này”.

Một tuần sau, một trận động đất khủng khiếp đã tàn phá tận gốc Scopine, rất nhiều người chết và bị thương nặng.

Vào đầu năm 1968 Vanga mấy lần rơi vào trạng thái xuất thần và cứ nhắc đi nhắc lại: “Hãy nhớ tới Praha! Hãy nhớ tới Praha! Mây đen đang tụ đặc trên thành phố và từ mây đen vang lên giọng nói: “Chiến tranh! Praha sắp biến thành cái bể kính, mà trong đó những kẻ điên sẽ bắt cá. Vâng, vâng, chính là như vậy!”

Có rất nhiều người cũng như tôi đã chứng kiến và nghe thấy những gì Vanga nói khi đó, tất cả họ có thể khẳng định điều này.

Rất nhanh sau đó, cả thế giới được chứng kiến những sự kiện bi thảm ở Tiệp Khắc. Nhưng Vanga ngụ ý gì khi nói rằng Praha biến thành bể kính ở đó người ta bắt cá, thì tôi cảm giác rằng cho đến hiện nay vẫn không ai hiểu. Thường thì Vanga không giải thích: những gì bà nói ra, đặc biệt khi điều đó động chạm đến những sự kiện lớn có tính chất vận mạng. Có thể nghe được ở bà những điều mà bản thân bà cũng không hiểu. Công việc của bà là truyền đi những gì nghe được.

Vanga thường tránh nói về chính trị, điều đó có lý do của nó. Bà sợ lời của bà có thể được giải thích những cách rất khác nhau. Nhưng quả thật, cũng có một vài lần bà nói về đề tài này. Cách đây khoảng chục năm đã có một cuộc đàm đạo thú vị giữa bà với nhà báo Libăng Abđel Amir Abđala. Về những ấn tượng của mình trong cuộc gặp gỡ này nhà báo đã chia sẻ với bạn đọc trong tờ tuần báo chính trị “Al.Kitakh al arabi”. Bài báo này được dịch sang tiếng Bungari và đăng trong tạp chí “Bulgaria de Oji” – Số 2 năm 1982. Thiết nghĩ không phải tất cả mọi người quan tâm tới Vanga đều đã đọc bài báo này nên tôi cho rằng có thể trích ra đây vài đoạn.

“Vanga có một căn phòng giản dị như trăm ngàn các căn phòng khác. Ở giữa phòng là một lò sưởi điện. Vanga ngồi trên đi văng trải thảm sọc xanh và vàng da cam. Nói chuyện với bà, tôi cố gắng tập trung sức mạnh tinh thần vào những ý nghĩ của mình để không bị rơi vào ảnh hưởng của người phụ nữ này. Tôi tháo kính và nhìn mặt ba người phụ nữ khác ngồi trong góc phòng. Mọi thứ vẫn còn in trong tâm trí tôi.

Im lặng ngự trị. Gương mặt Vanga toả ra sự yên tĩnh. Bà ngửng đầu và nói bằng một giọng mạnh mẽ tự tin:

- Nhà báo Libăng hãy lại đây và ngồi xuống. Hãy để người lái xe ra ngoài! – Đây là dấu hiệu đầu tiên cho tôi thấy sức mạnh của Vanga. Làm sao bà đoán được rằng người lái xe đang ngồi trong phòng.

- Hãy đưa miếng đường đây, nhà báo!

Tôi lấy từ trong túi ra miếng đường và đặt lên bàn để xem. Vanga cầm nó lên như thế nào. Không chút khó khăn, bà đưa tay ra và cầm ngay được miếng đường và bắt đầu sờ nắn nó. Bàn tay bà rất tự tin. Bà quay sang phía tôi và tôi cảm thấy bà nhìn thấu tâm hồn tôi. Vanga nói:

- Cậu có cặp kính mà cậu vẫn thường đeo trong những cuộc gặp gỡ và những tình huống quan trọng. Tại sao bây giờ cậu lại tháo nó ra?

Đó là đòn thứ hai giáng vào sự thiếu tin tưởng của tôi đối với sức mạnh của cái nhìn nội tại của bà.

- Hãy nghe đây – bà nói – cha mẹ cậu đang sống ở Libăng. Vào thời điểm này mẹ cậu đang ở nhà, còn cha cậu thì không. Có lẽ ông đang làm việc ngoài đồng. Cậu sống ở thành phố và làm nghề báo được 12 năm. Cậu viết về những vấn đề chuyên ngành của mình, đôi khi cũng viết về chính trị. Nhưng đóng góp của cậu ở đây không lớn lắm. Năm 1982 và 1983 sẽ đem lại cho cậu thành công lớn trong công việc. Sau này cậu sẽ có bảy đứa con, còn khi cậu 42 tuổi, cậu sẽ chứng kiến một cuộc chiến tranh lớn, nhưng tôi sẽ không nói ai là kẻ mở đầu cuộc chiến tranh này. Cậu theo đạo Hồi, hãy tuân thủ nghiêm ngặt những ngày lễ của lịch Hồi giáo. Các bạn có một văn bản thiêng liêng lớn đó là kinh Côran. Cậu phải chăm chú đọc nó, đặc biệt từ chương IX đến chương XII.

Im lặng một lúc, Vanga tiếp tục:

- Năm 1984, ở Xiry sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh lớn vì các vấn đề quốc tế của nó đang trở nên phức tạp. Cậu đã đến Jeruxalem bao giờ chưa? Bây giờ tôi đang nhìn thấy Bagđa. Thành phố Bagđa là gì vậy? Cậu sắp đi tới đó.

Bà tiếp tục không để cho tôi kịp ra câu hỏi:

- Ở Libăng sẽ có những vấn đề từ tứ phía. Tôi nhìn thấy dòng sông Nin hùng vĩ. Cậu sẽ tới thăm đôi bờ của nó. Trước mặt cậu có rất nhiều ngả đường.

Ngừng một chút, bà tiếp bằng giọng đều đều:

- Libăng bị bao bọc bởi những ngọn lửa. Tôi nhìn thấy nhiều quả đỏ và nhiều nước. Nhưng ở nước bạn sẽ không có và sẽ không dầu lửa.

Sau đó Vanga hỏi tôi:

- Ai đã kể cho cậu biết về tôi?

- Tổng biên tập Ualid Al-Huxein, chính ông cũng muốn nói chuyện với bà.

Vanga im lặng một lúc, sau đó lại xoay miếng đường giữa những ngón tay. Lát sau bà nói:

- Hiện nay ở Libăng có rất nhiều xe quân sự hạng nặng. Vào tháng 5 năm 1982 bầu trời của các bạn bỗng dưng tối đen. Sau một phút im lặng, bà lại tiếp tục:

- Ở Libăng có rất nhiều những uỷ ban khác nhau, chỉ có điều họ chẳng có khả năng bắt tay vào việc gì hết. Các chiến hào vẫn không có binh lính, còn các chướng ngại vật và chiến luỹ sẽ không bị phá vỡ.

Tôi nhìn và nghe, còn bà thì nói, hỏi và tự trả lời:

- Ai là nhà tiên tri của các bạn? Đó là người truyền đạo khiêm nhường như nhau cho cả người giàu lẫn người nghèo và nhìn thấy ngay ba hành tinh. Giờ đây linh hồn ông ta đang bước vào phòng. Eliax Sarkix là ai? Ông Tổn Thống của các bạn, theo đạo Cơ đốc, chưa vợ, dòng dõi Ả rập. Ông là một nhà chính trị tốt. Nhưng hiện nay ở Libăng đang có quá nhiều quân nhân. Trong tương lai vị trí của ông sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.

Vanga im lặng một chút rồi lại bổ sung:

- Tôi nghe thấy ở Brâyrut bây giờ đang có chiến tranh. Lửa lúc tắt, lúc lại bùng lên. Cậu có ủng hộ cuộc chiến tranh này không?

- Không, tôi không ủng hộ! – tôi trả lời.

Bà Vanga đã kể cho tôi nghe tất cả điều đó vào hồi 8 giờ 45 phút sáng ngày 2 tháng 12 năm 1981.

Sau này tôi trở về Libăng tôi tìm thấy trong kho lưu trữ những tư liệu cho biết chính vào ngày đó khu vực phía Tây của Bâyrút đã xảy ra những cuộc đụng độ giữa hai tổ chức vũ trang.

Tôi biết rằng thường thì Vanga không động chạm đến vấn đề chính trị. Nhưng tại sao so với tôi bà lại nói về điều đó? Có lẽ tình hình chính trị và vận mạng của đất nước tôi đã làm tôi rất lo lắng. Trước khi gặp Vanga, tôi đã nghĩ nhiều về điều đó và những ý nghĩ thầm kín của tôi có lẽ bằng cách nào đó đã in dấu nên trên miếng đường mà tôi vẫn thường cầm theo cả khi ngủ. Còn Vanga thông qua những dấu ấn đó biết được những ý nghĩ của tôi và cố gắng dùng những lời tiên đoán của mình để trả lời những vấn đề đang dày vò tôi.

Quay về Xôphia, tôi cứ nghĩ mãi về người phụ nữ mà năng khiếu đã được nhà nước công nhận này. Tôi quyết định không đăng những gì dính dáng đến riêng tôi cũng như không đăng những gì động chạm trực tiếp đến lợi ích của đồng bào và Tổ quốc tôi – Libăng.

Tại sao? Bởi vì nếu những gì mà Vanga nói, được xác nhận thì điều đó thật khủng khiếp. Tôi những muốn tin rằng: đó chỉ là những lời đoán mà thôi”

Năm 1978 có một vị khách cao cấp từ Nicaragoa tới thăm Vanga. Khi nói về tình hình chính trị ở nước mình vị khách tỏ hy vọng rằng tình hình sẽ ổn định phần nào. Nhưng Vanga trả lời ông ta:

- Không, máu vẫn còn đổ nhiều. Dòng sông máu còn chảy. Ông thậm chí cũng không hình dung nổi điều gì chờ đợi ông…

Mọi người thường hỏi Vanga: “Bà chưa chán tất cả những người thường ngày vẫn đến với bà ư? Bà thích nói chuyện với ai hơn?”

Bà trả lời:

- Đối với tôi tất cả mọi người đều như nhau (bà rất thích nhắc tới câu chuyện ngụ ngôn: Một lần Chúa Trời ra lệnh mở tất cả những quan tài và cử Thiên Sứ xuống xem trong đó có gì. Khi Thiên Sứ trở về Chúa Trời hỏi: hãy nói xem ngươi nhìn thấy những gì? Ngươi có phân biệt được ai là chiến binh, ai là người thường, ai là quan toà không? – Không thưa ngài – Thiên Sứ trả lời – tôi chỉ nhìn độc có xương trắng dưới đất thôi)”.

duyniceboy
01-29-2010, 02:58 PM
Chương 8: ĐẾN THĂM VANGA

Chúng ta hãy thử tách hiện tượng Vanga ra khỏi cá nhân bà và xem xem bà là người thế nào? Chúng ta không được quên rằng mặc dù có những khả năng đặc biệt bà cũng chỉ là một cá thể trong chúng ta. Tôi sẽ kể một ngày bình thường của dì tôi diễn ra thế nào.

Sáng sớm, 5 giờ Vanga đã dậy mặc dù chính bà thừa nhận:

- Ban đêm chỉ thân thể tôi được nghỉ, còn ý nghĩ vẫn bay lượn khắp nơi. Tôi nhìn thấy thật nhiều thứ: trong đêm khuya thanh vắng, tôi đặc biệt nhìn thấy và nghe rất rõ những tiếng chuông của trời đất điểm hàng giờ. Tất cả sự sống đều tuân theo nhịp điệu này. Do đâu những chú gà trống biết rằng đã đến lúc gáy, những con chim biết khi nào bắt đầu hót và hoa thì biết mở cánh để chào đón ngày mới? Đó là vì tất cả bọn chúng đều tuân theo một nhịp điệu một giọng nói mà con người không thể nghe được.

Công việc buổi sáng đầu tiên là vệ sinh dọn dẹp. Vanga rất sạch sẽ. Ai đã đến nhà bà ở Petritse đều biết rằng tất cả mọi thứ đều ở đúng vị trí của nó và sạch bóng lên. Bà giải thích:

- Hàng ngày có rất nhìêu người đến với tôi. Họ ra về thanh thản, còn bệnh tật, những băn khoăn, những ý nghĩ dại dột, những hồi ức nặng nề, sự bực tức và đau đớn của họ thì để lại đây trong nhà của tôi. Sức tải hàng ngày như vậy là rất nặng đối với đôi vai tôi. Vì thế tôi dọn dẹp nhà mình không phải chỉ vì sự sạch sẽ trong phòng mà chủ yếu là để làm nhẹ nhõm tâm hồn. Chỉ có tâm hồn thanh sạch mới có thể đi và tiếp xúc với tâm hồn khác.

Vanga không bao giờvội vã vào bàn ăn. Bà ăn rất ít và hầu như không ăn sáng. Mùa hè bao giờ bà cũng dành thời gian cho vườn hoa. Hoa là biểu tượng của sự thanh sạch và sự tươi mới. Sau đó một chiếc xe con do hội đồng xã dành riêng cho Vanga tới đón bà đi Rupite cách thành phố 11 km. Tại đó, trong một ngôi nhà nhỏ giữa một vườn đầy hoa, Vanga sẽ tiếp những người tới viếng thăm.

Vanga thường nhận được quà cáp từ những người khách của mình. Bà chỉ để lại cho mình những gì thuộc về kỉ niệm con người, còn lại bà đem phân phát hết. Bà đánh giá đồ vật không theo giá thực tế của nó mà theo vẻ đẹp và lao động kết tinh trong đó.

Gần 9 giờ sáng, Vanga bước vào phòng dành cho khách và bắt đầu buổi điều trị của bà. Bà tiếp những người rất khác nhau. Với mỗi người bà dành một thời gian nhất định bởi vì bà cho rằng mọi người cần những thứ khác nhau trong những lời nói của bà và trong sự giao tiếp với bà. Phần lớn khách ra về với cảm giác thoả mãn. Còn với những người ra về không hoàn toàn thoải mái, thì chúng tôi muốn nhắc họ nên chú ý hơn nữa đến những lời, thậm chí có vẻ không quan trọng mà Vanga nói ra, bởi vì không bao giờ bà nói điều gì thừa cả. Những gì Vanga nói trong một thời điểm xác định thì có hiệu lực chính vào thời điểm ấy và không thể giải thích nổi sau đó. Khi bạn theo dõi những buổi tiếp khách của bà, bạn sẽ có cảm giác rằng bằng tia sáng của một chiếc máy rađa bà đang rọi sáng lên tất cả những gì gần và xa trong số phận của khách. Bà “nhìn thấy”, “nghe thấy” và kể lại.

Đáng tiếc trong khi nói chuyện với Vanga, các “khách hàng” của bà thường nhớ được rất ít những gì bà đã nói. Theo tôi hiệu ứng này thường là do sự tiếp xúc chớp nhoáng với cái gì đó khác thường gây ra đến mức nó làm bối rối, nó bao vây tâm lý và trí nhớ của mọi người. Đối với chúng tôi, những người thân thường xuyên ở cạnh bà thì tình hình có khá hơn. Chúng tôi nhớ nhiều những lời tiên đoán cực kỳ chính xác của bà, tuy nhiên khi chúng ta bắt đầu bàn luận về những chi tiết thì hoá ra chúng tôi cũng không nhớ d8ược nhiều lắm. Thường thì mỗi người nhớ một cái gì đó của mình, không ai nhắc lại người khác. Tại sao vậy?…

Nhân chuyện này tôi dẫn ra hai trường hợp thú vị. Nhà văn Leonid Leonov đã quyết định dùng máy ghi âm lại tất cả những gì mà Vanga nói để sau đó gỡ băng dịch ra tiếng Nga và đọc lại thong thả. Ông không trông cậy lắm vào người phiên dịch, từ kinh nghiệm lần trước ông biết rằng họ chỉ nhớ đựơc rất ít những điều đã nghe. vào gặp Vanga, Leonov tự tay kiểm tra và bật máy và đề nghị những người có mặt không tới gần máy vì sợ họ nhỡ đâu làm hỏng cuộc ghi.

Vanga hào hứng kể cho Leonov nghe về những sự kiện quan trọng đang diễn ra ở Liên Xô, về việc điều gì sẽ chờ đợi đất nước trong tương lai. Nhà văn rất hài lòng, nhưng về tới khách sạn thì chút nữa ông bị nhồi máu cơ tim. Cuốn băng hoá ra vẫn trắng không. Không một lời nào của Vanga máy ghi âm được. Khi đó tôi hỏi Vanga liệu có thể nói lại không, nhưng bà nói rằng bà không thể nhắc lại những gì đã nói.

Trường hợp thứ hai: có hai người khách cũng là những nhà văn tầm cỡ chăm chú nghe Vanga nói cho họ nhiều điều thú vị, không chỉ nghe mà họ còn dùng một chiếc máy ghi âm tuyệt hảo để ghi. Nhưng khi trở về nhà kiểm tra lại băng mới ngã ngửa ra rằng, những lời của Vanga lại là những bài dân ca. Điều này càng kỳ lạ bởi vì trong thời gian họ viếng thăm trong phòng không hề có chiếc máy ghi âm nào khác, radio thì không bật.

Nói chung Vanga không khuyến khích việc ghi âm hay quay phim bởi bà cho rằng có thể ghi được những gì ít ỏi và không bản chất lắm, còn điều quan trọng – cái cỗi lõi khả năng kỳ lạ của bà thì không thể ghi lại được.

Tuy nhiên chúng ta hãy tiếp tục.

Khi mệt mỏi Vanga ngừng buổi tiếp và đi nghỉ. Bà thường đề nghị cô em gái Liupka xoa bóp đầu cho bà. Mẹ tôi nói rằng khi chạm vào đầu Vanga lòng bàn tay bà nóng bỏng cứ như chạm phải một bề mặt được nung nóng vậy.

Vanga là một đầu bếp giỏi. Chúng tôi khó có thể quên được rằng bà là một người mà lại có thể tự châm bếp nấu nướng và lại nấu rất ngon, bây giờ đã già bà không tự làm bếp nữa nhưng mọi thứ đều được tiến hành dưới sự theo dõi của bà. Bà biết rõ cái gì sạch cái gì bẩn trong đồ dùng làm bếp, cần cho bao nhiêu thứ gì vào món gì…

Sau bữa trưa, Vanga nghỉ ngơi. Bà ít khi ngủ, nhưng thích nằm im lặng một mình với những ý nghĩ của mình. Đồng hồ điểm năm lần, mặt trời xuống thấp. Vanga lại tràn đầy sức lực. Lúc đó cũng bắt đầu buổi tiếp khách chính. Có rất nhiều khách – người thân, người quen, bạn bè. Họ tới từ Petritse%2C Xanđanka, những làng lân cận, những vùng xa hơn, những khách nước ngoài.

Vanga tích cực tham gia vào đời sống xã hội của vùng mình. Những ý kiến xác đáng của bà thường được những người có trách nhiệm rất tôn trong và tính đến khi đưa ra những quyết định mới có tính chất xã hội trong vùng. Bà có mối quan hệ gần gũi và sâu nặng với những người trong vùng. Một bà người quen của chúng tôi (đã già) từ thành phố Belgorod khi viết thư cho Vanga đã đề địa chỉ như sau: Bulgaria, Vangegrad (thành phố Vanga) vậy mà thư vẫn đến nơi. Sự đồng nhất có lẽ cũng không phải là quá cường điệu. Rất nhiều bà mẹ trẻ đề nghị Vanga làm mẹ đỡ đầu cho con họ. Dì tôi thường không từ chối. Đến nay Vanga đã làm mẹ đỡ đầu của hơn 5.000 đức trẻ.

Sau bữa ăn tối nhẹ, gần 10 giờ tối Vanga trở về Petritse để nghỉ ở nhà. Mặc dù bị mù và sống một mình hoàn toàn, ban đêm bà vẫn từ tầng hai xuống tầng một tưới hoa.

Vì Vanga là “nhân vật quốc gia” nên người ta phái một chàng thanh niên đến chỗ bà làm nhiệm vụ phát vé. Có lần bà ra lệnh cho anh phát vé này hãy phát phiếu thoải mái không hạn chế, rằng bà sẽ tiếp họ cho đến tối thì thôi. Thế là một cảnh khó tin xảy ra: một dòng người tuôn chảy không ngừng, người này vào người kia ra vô tận. Chàng phát vé không kịp ghi hoá đơn. Cuối cùng không kìm được anh ta thốt lên: “Già Vanga, già có tiếp nữa không tôi đã ghi cái hoá đơn thứ 100 rồi?” Đến lúc đó thì Vanga ra lệnh ngừng lại.

Vanga có một chiếc radio hiệu “Chim ưng” mà bà thường đem theo mình trong túi, chúng ta thì nghe các chương trình, còn bà thì cùng với những ý nghĩ của mình bay tới những miền xa xôi. Vài năm trước đây không hiểu theo lệnh của ai một đoàn quan chức thủ đô bay tới chỗ người dì tội nghiệp của tôi để ghi lại tất cả những món quà mà những người khách hảo tâm đã để lại. Vanga hết sức băn khoăn, công phẫn, sau đó bà bị ốm và cả tháng nằm trong bệnh viện ở Xôphia. Suốt thời gian đó, ngôi nhà của bà bị mở tung và các quan chức không phải là ghi lại danh sách đồ vật mà là chiếm đoạt chúng – đó là điều họ thích làm.

Từ bệnh viện về, Vanga thậm chí không buồn bước vào nhà mình nữa. Bà ở lại Rupite sau khi cay đắng nói: “Tôi không muốn đi theo vết bọn ăn cắp”. Chúng tôi dọn dẹp lại như cũ, nhưng từ đó Vanga không còn yêu ngôi nhà đã bị bọn “ăn cắp hợp thức” lục lọi này nữa. Một lần bà hỏi tôi có nhìn thấy cái radio của bà đâu không. Tôi bảo đã tìm khắp nơi song không thấy. Dì tôi lẩm bẩm: “Thôi không sao, rồi tự nó sẽ đem cái radio đến thôi mà”.

Tôi tất nhiên không hiểu cụ thể ai sẽ phải mang chiếc radio đến. Người phát vé phục vụ trong “văn phòng” của dì tôi khi đó là một người đứng tuổi – bỗng dưng bị ốm nặng. Và khi đã ốm nặng, ông ta mới tới nhà chúng tôi với…chiếc radio. Bối rối và ngượng ngùng ông ta kể lại rằng đã lấy chiếc đài vì tin chắc rằng Vanga bị ốm nặng sẽ không thể ra viện được nữa, rơm rớm nước mắt ông ta xin lỗi Vanga. Nhưng bà thậm chí không đụng đến chiếc đài mà chỉ nói: “Thật tội nghiệp, tôi rất thương anh, anh đang phải trả giá cho việc anh đã lấy của tôi đồ vật này. Tôi tha lỗi cho anh, có điều bây giờ thì còn làm gì được nữa. Anh đã tới muộn”.

Không bao lâu sau, người này bị chết trong những cơn đau đớn dày vò khủng khiếp. Sau đó tất cả những kẻ tội lỗi trong vụ khám xét tồi tệ này đều đến nhà bà để xin lỗi. Vanga dường như không nhận thấy họ, những gì diễn ra trong tâm hồn bà chỉ có bà biết mà thôi.

Có lần chúng tôi nhận được một bức thư từ Tây Ban Nha xa xôi. Người viết lá thư là một phụ nữ nghe tiếng Vanga và hơn nữa lại tỏ ra khá tường tận về nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc đời Vanga. Tôi nhớ một đoạn sự kiện trong thư của bà “Thưa Vanga, điều đáng ngạc nhiên không phải là tài lạ của chị, mà là việc tài năng đó không có gì là thần bí cả. Tôi rất hiểu chị phải vất vả, nặng nhọc thế nào. Tất cả đều phơi mở trước cái nhìn thấu suốt của chị và chị phải (vâng, tôi biết rằng chính là như vậy) tiếp thêm niềm hy vọng cho mỗi người đến xin chị giúp đỡ, kể cả trong trường hợp chị nhìn thấy toàn bộ bi kịch trong số phận của người đó”.

Người phụ nữ Tây Ban Nha không quen biết đã nhận thấy chính xác những nét tính cách cơ bản của Vanga – hào hiệp và nhân ái. Một người quen cũ của chúng tôi, bác sĩ I.B rất có uy tín đã từng cứu sống nhiều người bằng loại thuốc do ông chế tạo ra. Ông vẫn hy vọng rằng cuối cùng sẽ được công nhận vì 25 năm trời lao động nặng nhọc, vì công trình nghiên cứu kiên trì của mình.

Năm 1987 Vanga mời ông đến chơi, họ đàm đạo nhiều về thứ thuốc mới của người bác sĩ này. Vanga khuyên nên bổ sung vào thứ thuốc đó một loạt thành tố để đạt được hiệu quả lớn hơn. Khi chia tay bà nói với ông ta:

- Anh rất mệt mỏi đấy Ivan ạ! Nên đi nghỉ đi.

- Vâng – bác sĩ trả lời – cả gia đình tôi đang chuẩn bị đi biển. Hành lý đã thu xếp rồi.

- Không – Vanga phản đối – đừng đi biển, dù thế nào cũng đừng đi biển. Núi non sẽ đem lại cho anh sự nghỉ ngơi cần thiết.

Nhưng ông bác sĩ vẫn đi biển, cuối cùng ông ta trở về nhà ốm nặng và chẳng bao lâu thì mất. Thường thì bao giờ ông cũng tham khảo ý kiến của Vanga và nghe lời bà. Nhưng tại sao lần này không làm theo thì tôi không biết. Có lẽ gia đình, mà cũng có thể có cái gì khác nữa…

Qua đây tôi muốn nhắc lại lần nữa nên chú ý lý giải những lời nói của Vanga, bởi vì trong mỗi một từ bà đều gửi gắm một ý nghĩ đặc biệt mà đôi khi chúng tôi chỉ hiểu được sau đó.

Một người Z.B thường rất thích thú kể lại chuyện sau:

“Tôi đến chơi nhà Vanga vào mùa đông. Bà tiếp tôi trong căn phòng nhỏ ấm cúng của mình. Bà ngồi bên lò sưởi đan len thoăn thoắt và khéo léo chẳng khác gì người sáng mắt. Tôi ngạc nhiên và khâm phục nhìn bà. Bỗng bà nói với tôi như đọc được ý nghĩ của tôi vậy: - Sao, thích đan không? Nếu muốn thì sẽ học được thôi. Nhưng có việc để cho cháu làm đây. Hãy ra nói cho chị nấu bếp lấy chiếc chảo vẫn để rán cá xuống.

Sẵng sàng làm mọi việc cho Vanga, tôi nhanh nhảu nói để tôi đi làm cá. Bà cười và bảo:

- Không đâu, bởi vì bây giờ thì chưa có cá. Nó chỉ đang trên đường đến với ta thôi. Bây giờ sẽ có người từ làng Prepechen mang ca đến.

Tôi không tin và quyết định ngồi chờ để kiểm chứng lời nói của Vanga. Khoảng 2 giờ sau có tiếng gõ cửa, một chàng trai xuất hiện và câu đầu tiên mà anh ta nói là:

- Dì Vanga, cháu bắt được con cá ngon đem đến biếu dì. Một con cá hồi tuyệt vời.

Những câu chuyện như vậy rất nhiều không kể xiết. Nhưng thôi hãy trở lại câu hỏi chính: Vanga là người thế nào? Tôi gần như từ bé sống bên cạnh bà và có thể khẳng định rằng bà sống như bất cứ người bình thường nào khác, trong cuộc sống thường ngày không có gì đặc biệt. Bà sống trong sự hài hoà hoàn toàn với thiên nhiên xung quanh và bản thân là một bộ phận mang tính quy luật của nó với đầy đủ ý nghĩa của từ này. Đó là nguyên nhân tại sao bà nhạy cảm với thiên nhiên đến thế, nắm bắt được từng tín hiệu của nó đi từ ngoài tới bằng những giác quan hoàn hảo của mình. Bà hiểu rõ mọi thứ xung quanh bà: cây, cỏ, hoa, lá, đất đá, chim muông, bằng cái nhìn của ý nghĩ bà thâm nhập vào vũ trụ, vào quá khứ và tương lai. Núi đồi nói với bà bí mật hàng ngàn năm của mình. Sông suối chia sẻ với bà về những truyền thuyết đã biến mất từ lâu và về những con người của những thế kỷ xa xưa. Vanga cho rằng tất cả đều “sống động”, không tồn tại thứ thiên nhiên “chết”. Thiên nhiên nói chung tuân phục một số tổ chức tối cao và một trí tuệ tối cao nào đấy.

Đôi khi Vanga cũng có tâm trạng ủ rũ, khi đó bà không muốn nói chuyện với ai, mà nếu có ai đó quấy rầy thì bà rất giận dữ.

- Xin đừng quấy rối, tôi đang nghe những giọng nói xa xôi từ quá khứ và tương lai. Đôi khi vây quanh tôi là những bậc “chỉ huy” các kiểu, đôi khi là các “cấp dưới” của họ – và tất cả họ từ Vũ trụ tới. Giọng nói của họ tới đây từ nơi rất xa xôi thăm thẳm và ngân vang như tiếng vọng. Đó là lý do tại sao tôi cần yên tĩnh và im lặng. Đôi khi tôi cáu kỉnh, mọi người nghĩ rằng tôi ác. Không, không phải thế. Tôi thấy rõ cái vòng lửa bao quanh Trái đất đang siết chặt dần, tôi đau đớn với những nỗi đau của những người không quen biết, nhưng tôi không thể và không dám giải thích tất cả. Có một giọng nói uy quyền nghiêm khắc thường xuyên cảnh báo: “Đừng có dấn sâu vào việc giải thích; mọi người cần phải sống cái cuộc sống mà họ đáng được hưởng”. Còn làm sao mà giúp được những kẻ không đếm xỉa đến ai, đến cái gì nữa và chỉ cố gắng có càng nhiều tiền, nhiều đồ mà quên đi nghĩa vụ thiêng liêng của con người là sống một cuộc sống đạo đức cao cả. Thật quái đản, nhưng ngày nay con người đang cố gắng dập tắt những gì tươi sáng mà phải trả qua hàng thế kỷ và phải trả giá bằng những hy sinh khổng lồ mới đạt được.

…Vào cái ngày đó, ngày 30 tháng 5 năm 1989, Vanga nói với tôi rằng bà nhìn thấy bên cạnh mình một phụ nữ đẹp, mặc toàn đồ trắng. Nhìn người phụ nữ rất dễ chịu, bởi vì khuôn mặt bà ta đầy hứng khởi và tươi sáng, còn quần áo thì lấp lánh ánh bạc. Tất nhiên, ngoài dì tôi, không một ai thấy người phụ nữ này. Khi hình ảnh biến mất, Vanga thở dài nói:

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ngần ấy vẻ đẹp tập trung trong một dáng hình con người. Thậm chí cả khi còn sáng mắt tôi cũng không nhìn thấy.

Khi người phục vụ cho mời khách khứa tới gặp Vanga, bà nói chuyện với họ bằng một giọng đặc biệt hiền hoà, nhỏ nhẹ và điềm đạm. Có, có một cái gì đó trong thế giới (hoặc trùm lên trên thế giới), có một cái gì đó Thần thánh mà vì tình yêu đối với nó, mọi người biết liên hiệp lại và đi tới đại đồng.

Mong sao nó đến nhanh…

duyniceboy
01-29-2010, 02:59 PM
Chương 9: NHỮNG SỨ GIẢ NHÀ TRỜI

Tôi tự cho phép mình quay lại với bản anket (bảng câu hỏi) mà tôi đã dẫn ra ở phần đầu cuốn sách cốt để cho ý nghĩa của phần tiếp theo đây trở nên sáng tỏ hơn. Và đây là những câu hỏi Vanga và những câu trả lời của bà.

- Dì có cảm giác rằng thiên khiếu của bà là được lập chương trình bởi những lực lượng tối cao không?

- Có

- Thế bà tiếp nhận họ thế nào?

- Thường là nghe giọng nói.

- Tất nhiên là bà không thể nhìn thấy họ?

- Ngược lại, có nhìn thấy. Đó là những dáng hình trong suốt giống như bóng người ở dưới nước.

- Những điểm phát sáng trong không khí mà chúng ta có thể nhìn thấy – cũng là những biểu hiện của họ ư?

- Đúng vậy.

- Những lực lượng tối cao có thể vật chất hoá không?

- Không.

- Mối liên hệ được duy trì một phía, theo mong muốn của họ, hay là bà cũng có thể bước vào tiếp xúc với họ.

- Thường là theo ý nguyện của họ, nhưng cả tôi cũng có thể kêu gọi họ được.

- Liệu có thể biết được gì về chính họ không, nếu như tự hỏi họ?

- Không. Rất khó. Những câu trả lời thường là mù, dè dặt, tôi không hiểu chúng.

- Con người chúng ta là sinh thể có trí tuệ, một trí tuệ có trái tim ở một giai đoạn phát triển nhất định nào đó, thế liệu có một trí tuệ khác cao hơn tồn tại song song không?

- Có.

- Thế nó nằm ở đâu? Chắc là ở trong vũ trụ?

- Ừ, trong vũ trụ.

- Liệu có thể coi trình độ va7n minh nhân loại ngày nay là độ tuổi thiếu thời của trí tuệ không?

- Có.

- Liệu có xảy ra cuộc gặp gỡ với nền văn minh ngoài trái đất?

- Có.

Một lần sau khi tiếp khách, trong phòng còn lại mỗi tôi và Vanga bỗng bà tập trung tư tưởng nói chậm rãi và rõ ràng cứ như là đọc trong sách.

- Bác nhìn thấy rặng núi, chỗ đó ở trong núi, trong núi…

Lúc đó tôi có cảm giác rằng chính Vanga giờ đây đang ở đó trong núi và kể chi tiết đáng kinh ngạc về những gì nhìn thấy: đám cỏ nhỏ và cứng, những viên sỏi, con đường mòn thấp thoáng. Và tiếp theo – một vách đá sắc nhọn như răng thú dữ.

- Hãy đi tới vách đá đó – dì nói – Hãy đi vào mùng 5 tháng5.

Tôi hỏi tại sao chính vào ngày đó?

- Do vị trí của những thiên thể – dì trả lời – Điều quan trọng nhất có thể nhìn thấy trong ánh trăng cũng như lúc bình minh. Sau đó dì tỏ ra không muốn nói gì về đề tài này nữa. Nói chung tôi không hoàn toàn hiểu câu nói cuối cùng có ý nghĩa gì. Nhưng chúng tôi – những người thân đã quen không đặt những câu hỏi thừa.

Những người bạn nhiệt tình đã hưởng ứng ý định của tôi và sáng ngày 4 tháng 5 chúng tôi chuẩn bị chuyến “du lịch”. Buổi trưa chúng tôi lên đường.

Cuộc lang thang trên núi đồi làm cho chúng tôi chán nản, buồn bã hơn là tạo niềm vui thú. Có những lúc nghi ngờ sự thành công của cuộc tìm kiếm chúng tôi đã đề nghị quay trở về thành phố nhưng đám bạn tôi phản đối. Thật hết sức ngạc nhiên, buổi chiều chúng tôi tìm được đến nơi. Vanga đã miêu tả nó chi tiết và chính xác đến mức không thể nhầm lẫn được. Chúng tôi nhìn thấy một vách đá sắc nhọn như răng thú đứng áng ngữ ở vành phía bắc một tràng có không lớn lắm, nhìn xuống dưới chân, chúng tôi thấy những viên sỏi và một loại cỏ cứng như làm từ dây kẽm gai vậy. Khí trong núi trong lành từng đàn bướm thấp thoáng ẩn hiện trong những bụi cây rì rào. Phong cảnh tuyệt vời.

Chiều muộn, trời bỗng dưng tối sầm lại, mưa đổ xuống. Một giờ sau chúng tôi ướt như chuột lột. Chiếc lều bạt cũng không giúp gì được nước ngấm vào những túi đựng thức ăn và quần áo dự phòng. Mưa kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, sau đó cũng bất thình lình như lúc bắt đầu, mưa tạnh, chỉ có vòm trời vẫn còn u ám. Chẳng mấy chốc, trời sụp tôi. Chúng tôi đốt một đống lửa để sưởi và hong khô quần áo. Quây quần quanh ngọn lửa chúng tôi quyết định qua đêm ở đấy. Xung quanh vắng lặng, bóng tối mênh mông, có cảm giác trên thế giới chẳng còn ai ngoài chúng tôi. Tôi không yên với ý nghĩ rằng chuyến đi của chúng tôi tới cái chỗ hoàn toàn lạ lẫm này lại vô ích, thêm nữa, đầy mây thế này chẳng thể nhìn thấy cả mặt trăng lẫn mặt trời. Đầu óc cảm thấy khó chịu, chẳng muốn nghĩ gì nữa mắt díp lại, tôi và các bạn gà gật bên đống lửa chập chờn.

Tới gần sáng bầu trời rạng lên, chúng tôi đứng dưới chân vách đá và nóng ruột chờ đợi những tia mặt trời đầu tiên.

Tôi không hiểu tại sao chúng tôi lại đứng đúng vào chỗ mà rõ ràng là giữ via trò “phát hiện”: trên bề mặt của vách đá, ngang tầm mặt của chúng tôi có ba hố lõm kích thước bằng khoảng chiếc đĩa tách. Chúng tạo thành một tam giác cân, mà đỉnh của nó hướng xuống dưới đất. Nửa tiếng trôi qua nhưng không có gì thú vị xảy ra. Mặt trời lên chập chạp. Và bỗng nhiên một tia nắng chiếu vào vách đá sắc nhọn, nó trườn xuống dưới chạm vào hình tam giác và chậm rãi bò từ trái qua phải, theo đúng những hố lõm trên vách đá. Chúng tôi không biết trò chơi đó của những tia nắng trên vách đá là ngẫu nhiên hay là chúng tôi đã chứng kiến một hiện tượng thú vị, nhưng sự kiện là sự kiện: ngày 5 tháng 5 tia mặt trời đã vẽ trên vách đá hình tam giác đã được đánh dấu bởi ai đó trước chúng tôi. Dấu hiệu đã trao cho chúng tôi. Bởi ai và thế nào thì chúng tôi không biết.

Cả ngày chúng tôi bàn luận về hiện tượng xảy ra và nhìn lên vách đá những hình tròn lõm tạo thành tam giác và sốt ruột chờ đợi buổi đêm để xem Mặt trăng – “em” của Mặt Trời - chỉ cho thấy cái gì.

Đêm xuống, trời lại đổ mưa. Chúng tôi lại ướt tận chân lông và lại hong khô bên đống lửa, đồng thời vô vọng nhìn lên bầu trời u ám cau có. Tuy nhiên giờ đây chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn hôm qua. Chúng tôi tin ở Vanga và hy vọng vào điều kỳ diệu. Đến gần nửa đêm chúng tôi lại chiếm lĩnh vị trí ban sáng bên cạnh vách đá. Và cái gì đây? Đám mây dần dần tản ra, nửa giờ sau trên trời xuất hiện những ngôi sao đầu tiên chẳng mấy chốc mặt Trăng ló ra. Tất cả tĩnh lặng như đêm trước. Sự hồi hộp của chúng tôi tăng dần, nhưng chúng tôi vẫn không rời mắt khỏi vách đá.

Và bỗng dưng một ánh trăng – chúng tôi thậm chí cũng không hiểu xảy ra từ đâu – lặp lại đúng trò chơi ánh sáng của tia mặt trời ban sáng. Nó chạm vào đỉnh của vách đá sau đó nhiều lần chạm vào những điểm tròn lõm trên vách đá, trong suốt 15 phút, nó vẽ từ trái qua phải hình tam giác với đỉnh hướng xuống dưới đất, rồi sau đó biến mất.

Chúng tôi đứng bất động, cách vách đá tối đen khoảng 2 – 3 mét. Không ai thốt lên lời nào, nhưng chúng tôi đều nghĩ về một điều: “Trò chơi ánh sáng trên vách đá, trên hình tam giác kia phải chăng là ngẫu nhiên? Sự trùng hợp? Chưa chắc, thật khó tin!

Nhưng mấy phút sau đó, mặt phía nam nhẵn nhụi của vách đá bỗng lấp loáng một ánh sáng xám bạc như màn ảnh của một chiếc tivi khổng lồ. Và một thoáng sau trên “màn ảnh” xuất hiện hai hình người. Hai hình này rất lớn chúng bao chiếm gần hết khoảng không được chiếu sáng – bức tường nhẵn có chiều cao không dưới 5m và rộng khoảng 3m – 4m. Những dáng hình này nhìn rất rõ và trông nổi đến mức tôi có cảm giác rằng trong bất cứ phút nào họ cũng có thể tách ra khỏi bức tường để bước về phía chúng tôi. Chúng tôi như hoá đá vì ngạc nhiên và sợ hãi. Cho đến chết tôi cũng không bao giờ quên được cảnh tượng đó. Vậy là, phía trái “màn ảnh” của chúng tôi, chúng tôi nhìn thấy một người đàn ông, chính xác là một ông già, râu tóc dài đến vai mà mặc bộ quần áo dài chùng xuống đất. Tay trái ông buông thõng xuống, còn tay phải đưa ra phía trước cầm một vật gì đó giống như trái bóng, nhưng tất nhiên đó không phải là quả bóng mà có lẽ là máy móc gì đấy không rõ chức năng.

Xa hơn một chút, cao hơn một chút, phía bên phải là dáng hình thứ hai – một người đàn ông rất trẻ. Anh ta ngồi trong ghế bành, tay để trên tay ghế, ánh mắt hướng về phía xa xăm, khuôn mặt căng thẳng. Trên đầu ông ta là một chiếc mũ cao, còn trên mũ là một cái gì đó tựa như ăngten. “Màn hình” được chiếu sáng khá lâu, chúng tôi kịp ngắm nhìn và nhớ rõ cả ông già lẫn chàng trai. Sau đó tất cả xung quanh chìm vào bóng tối mù.

Khi tĩnh trí lại và sau khi soi đèn pin nhìn đồng hồ chúng tôi mới tin rằng chúng tôi đã quan sát bức tranh lạ lùng ấy gần 20 phút. Chúng tôi im lặng quay về lều, như theo hiệu lệnh, bắt đầu vội vã thu dọn hành trang trong bóng tối như bưng, dùng đèn pin soi đường, bước thấp bước cao vấp vào rễ cây, đá sỏi chúng tôi lặng lẽ và nhanh chóng quay về nhà. Quãng 2 giờ sáng nhìn thấy những ngọn đèn dầu đầu tiên của thành phố, chúng tôi thở ra nhẹ nhõm.

Chỉ hoàn toàn tĩnh trí khi đã ở nhà, chúng tôi mới bắt đầu bàn luận, tranh nhau kể và miêu tả lại những điều đã nhìn thấy. Hoá ra cả 5 chúng tôi đều nhìn thấy như nhau. Những miêu tả của chúng tôi hoàn toàn trùng khớp nhau.

Nhớ lại điều lưu ý của Vanga: cái chủ yếu nhất có thể nhìn thấy dưới ánh trăng cũng như dưới những tia sáng đầu tiên. Bởi vì tôi và Vanga là họ hàng, ai đó có thể nghĩ rằng tôi đã được chuẩn bị về mặt tâm lý để đón nhận một sự kiện nào đó, thậm chí không biết cụ thể là sự kiện gì. Được, cứ cho là như vậy, nhưng còn những người khác đi cùng chúng tôi thì sao? Chúng tôi, năm người khác nhau về lứa tuổi, học vấn và đức tin. Còn về những bức tượng do những người lạ từ nơi khác đến dựng mà Vanga “nhìn thấy” thì tôi không hề nói cho các bạn mình biết. Đơn giản là tôi cũng đã quên phắt về chúng rồi và chỉ nhớ lại khi ngồi vào bàn viết cuốn sách về Vanga và rút ra từ cặp giấy những ghi chép mà tôi cất đi trong tủ sách từ năm 1979. Vậy là rõ ràng ở đây không hề có sự ám thị hay thôi miên nào hết. Điều đó là gì vậy? Và tại sao Vanga lại bảo chúng tôi đi vào ngày 5 tháng 5 đến đúng cái “màn ảnh” đó trên vách đá?

Ngày hôm sau tôi sang nhà Vanga và thuật lại toàn bộ chi tiết cho bà nghe. Bà nghe hứng thú nhưng không hề bình luận câu nào. Những gì mà chúng tôi đã nhìn thấy cho đến nay vẫn trăn trở trong tôi. Chúng tôi còn vài lần nữa đi tới đó vào buổi sáng và buổi tối, nhưng không nhìn thấy gì nữa. Chúng tôi quyết định không kể cho ai về trường hợp dị thường gần như hoang đường này. Tôi sực nhớ ra những lời của Vanga: “Thời gian những điều kỳ diệu sẽ tới, khoa học sẽ làm nên những phát hiện lớn trong lĩnh vực phi vật chất. Năm 1990 chúng ta sẽ chứng kiến những phát hiện khảo cổ học tuyệt vời, chúng làm thay đổi tận gốc những hình dung của chúng ta về những thế giới cổ xưa. Tất cả vàng được cất giấu sẽ trồi lên mặt đất, nhưng nước lại ẩn náu đi. Tiên định là như vậy.

Tôi tin tưởng sâu sắc vào những điều Vanga nói về những phát hiện trong tương lai của khoa học. Tôi cũng hy vọng rằng vào một ngày đẹp trời nào đó khoa học sẽ trao cho tôi và các bạn bè của tôi chìa khoá để giải đáp điều bí ẩn kỳ lạ đã đánh dấu cuộc sống của chúng tôi bằng sự tiếp xúc với các siêu nhiên và đã làm thay đổi cơ bản những hình dung của chúng tôi về thế giới hiện thực. Vậy trong thế giới cái gì hiện thực và cái gì là phi hiện thực? Và ranh giới giữa chúng ở đâu, nếu nói chúng tồn tại cái ranh giới như thế?

Tôi không biết liệu có tìm nổi câu trả lời cho những câu hỏi này không. Tôi cũng không biết, liệu tôi có thể hiểu được hiện tượng Vanga là thế nào không.

…Tôi đã trải một con đường không dễ dàng để đạt tới những trang này. Với tình yêu chân thành trong sáng tôi cùng với các bạn cố gắng nhìn vào thế giới huyền bí có tên gọi là Vanga, cố gắng trình bày Vanga như bà vốn có trên thực tế, kể về những mối quan tâm mọi mặt rộng rãi của bà, về diện mạo đạo đức đáng học tập và phẩm chất con người cao cả của bà như cái sứ mạng khó khăn của bà là chỉ ra cho chúng ta con đường đi tới cái thiện, tình yêu và bác ái.

Tôi xin dẫn lại lời của bà: “Tôi được đặt ở đây và nghiêm ngặt do thời gian tồn tại nhất định của mình trên mặt đất. Tôi đưa tay cho những người đang tuyệt vọng và chỉ cho họ nên đi đâu”. Và nữa: “Cần phải trở thành thiện nhân và yêu thương nhau để tự cứu rỗi! Tương lai thuộc về người hiền, họ sẽ sống trong một thế giới tuyệt diệu mà bây giờ chúng ta khó mà tưởng tượng nổi”.

Vanga đã truyền cho chúng tôi bao nhiêu niềm hy vọng và tự tin. Trong những ngày tháng nhiễu nhương này thật đặc biệt dễ chịu khi nghe thấy rằng cuộc sống trên Trái Đất không thể lụi tàn, bởi vì “rồi sẽ tới thời đại của lao động hứng khởi của tình yêu và bác ái giữa tất cả mọi người trên hành tinh”. Chúng ta có thể tin bà bởi vì hàng ngày bà đã thuyết phục được chúng ta bằng sự đúng đắn trong những điều dự báo của mình.

…Màn đêm đang buông xuống Rupite. Đỉnh núi Kojiuc in đậm trên nền trời tím biếc, hơi ấm của những nguồn nước khoáng cuồn cuộn tuôn ra từ chân núi làm cho toàn bộ bức tranh phong cảnh càng huyền ảo lung linh. Đâu đó vẳng từ xa những âm thanh của cuộc sống thành phố thường nhật – tiếng còi ôtô, giọng nói tiếng cười của mọi người, nhưng chúng không thể phá vỡ sự yên tĩnh thanh bình của thung lũng Rupite, nơi thời gian tưởng chừng như mãi ngừng lại. Còn tiếng róc rách êm dịu của con suối St.ruma lại làm thức dậy những âm thanh hoàn toàn khác: vẳng nghe như những bước chân điềm đạm của những người xa xưa, khi mà gia điệu ngọt ngào của tiếng tù và thấm đượm khắp không trung bằng sức quyết rũ thiên đường của nó, khi ngọn gió khe khẽ rì rào trong những cành cây, đùa trên ngọn cỏ và chim chóc vang khúc ca về tình yêu và hạnh phúc. Có chăng một thời như thế, hay đó chỉ là tượng thiên đường của chúng ta về cuộc sống ngày xưa? Tôi cũng không rõ nữa.

Và Vanga của tôi, giữa những bông hoa đáng yêu trong vườn đang sốt ruột ngồi chờ SỰ KIỆN LỚN LAO ĐÓ (theo cách nói của bà). Bà ăn nhập vào bức tranh tuyệt vời đó một cách hài hoà và tự nhiên đến mức có cảm giác dường như bà đã ngồi đây mãi mãi. Đôi khi khuôn mặt bất động trong công việc tinh thần căng thẳng của bà bỗng sống động, còn đôi mắt đã mù của bà lại mở rộng ra. Bằng cái nhìn siêu nhiên của mình bà nhìn thấy gì trong buổi chiều yên ả như thế này? Phải chăng bằng ý nghĩ bà đang phiêu diêu ở những thời đại quá khứ xa xưa hay đang nhìn qua những rào chắn của tương lai? Phải chăng những trang của tồn tại nhân loại đang được lật giở, hay là chính những ngôi sao đang kể cho bà nghe về những thế giới khác xa lạ mà những bức thông điệp của chúng bà có thể giải mã được nhẹ nhàng giống như chúng ta đọc một tờ báo buổi sáng?

Giờ đây tôi bất giác nhớ lại lời của Vanga nói cách đây đã lâu: “Cuốn sách như thế này không viết xong bây giờ được”. Quả thật không thể. Cuốn sách như vậy phải được xây dựng liên tục, ngày này qua ngày khác và còn lâu mới có thể đặt dấu chấm hết cho nó được. Chúng ta đã biết gì về Vanga? Thật ít ỏi đến bực mình. Cần phải đặt đối chiếu những quan điểm khác nhau, điều tra, nghiên cứu và có lẽ dần dần chúng ta mới thâm nhập vào điều bí mật có tên gọi là Vanga.

Điều phát lộ (linh cảm) của người phụ nữ thấu thị đó là niềm hy vọng và chỗ dựa của chúng ta trong cuộc sống đầy bất trắc, là những dấu hiệu bí mật từ vũ trụ. “Ai có tai khắc nghe thấy”.

THE END

nhanvatso1
01-31-2010, 05:50 PM
Chà đầy đủ hơn bài của tui ùi , kiếm ở đẩu thế

Sand
01-31-2010, 06:12 PM
Ý chà chà, hồi xưa tớ đi thư viện quốc gia có nguyên cuốn về người này luôn nà, không lẽ chàng Duy siêng đến thế..ngồi mà gõ lại hết á? ^_^

duyniceboy
01-31-2010, 11:10 PM
@Sand:hờ hờ,cám ơn bạn quá khen.Nhưng mình không siêng đến như vậy đâu.Ngại wa mắc cỡ wá )(